Em có nhận xét gì về số lượng người bệnh AIDS ở châu Phi
Em có nhận xét gì về số lượng người bệnh AIDS ở châu Phi
nguyên nhân làm cho chính trị xã hội châu phi mất ổn định
Tham khảo
Cũng như các châu lục khác trên thế giới, trong những năm qua, châu Phi trải qua nhiều chuyển biến tích cực trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội. Từ một khu vực bị phân hoá, chìm ngập trong xung đột, đói nghèo, bệnh tật, đời sống người dân vô cùng khó khăn và hầu như không có vị trí trong đời sống chính trị, kinh tế của cộng đồng quốc tế, trong mấy năm gần đây, châu Phi có tình hình chính trị tương đối ổn định, tăng trưởng kinh tế trung bình đạt 3%/ năm, riêng năm 1997 đạt khoảng 5%, trong khi tỷ lệ tăng dân số có chiều hướng giảm, các cuộc xung đột đi dần vào giải pháp hoặc bị thu hẹp, xu thế hoà bình, ổn định và hợp tác ngày càng được củng cố; một số nước thoát ra khỏi thảm cảnh nghèo đói bần cùng và xung đột bạo lực, bắt tay vào khôi phục nền kinh tế, xây dựng lại đất nước. Với những thành quả bước đầu trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước, với xu thế hoà bình, ổn định và hợp tác phát triển trên thế giới, các quốc gia châu Phi sẽ từng bước vượt qua những khó khăn, thử thách, duy trì hoà bình ổn định, tiếp tục khôi phục kinh tế mở ra triển vọng phát triển mới trong thời gian tới.
Là lục địa lớn thứ ba trên thế giới về diện tích, châu Phi hiện nay có hơn 700 triệu người, giầu tài nguyên thiên nhiên, đặc biệt là dầu mỏ và các khoáng sản chiến lược với trữ lượng lớn và mới khai thác. Nhưng từ thập kỷ 60 trở về trước, châu lục này bị đế quốc, thực dân đô hộ và chia cắt. Tình trạng dân trí thấp, sống du canh du cư theo bộ tộc, bộ lạc, chậm phân hoá giai cấp -xã hội, bên cạnh đó sự thống trị, bóc lột, chia rẽ và sự áp đặt của đế quốc thực dân trong việc phân định đường biên giới lãnh thổ làm cho quá trình hình thành các quốc gia - dân tộc diễn ra phức tạp, khó khăn và chứa đựng nhiều mâu thuẫn giai cấp, xã hội. Sau Thế chiến II, được sự ủng hộ và giúp đỡ của Liên Xô (cũ) và các nước xã hội chủ nghĩa, phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc, đòi độc lập tự do phát triển mạnh mẽ, và đến cuối những năm 70, khi những vết tích cuối cùng của chủ nghĩa thực dân bị xoá bỏ, thì hầu hết các nước Châu Phi dành được độc lập dân tộc ở mức độ khác nhau và lựa chọn mô hình phát triển đất nước dưới tác động của chiến tranh lạnh, sự tập hợp lực lượng và đấu tranh ý thức hệ giữa hai phe, hai khối. Trong số 50 quốc gia châu Phi hiện nay, trước năm 1950 chỉ có 4 nước độc lập, những năm 50 và 60 có 38 quốc gia dành độc lập, và chỉ riêng năm 1960, một loạt 17 nước ra đời. Tình trạng nghèo nàn, chậm phát triển, những hậu quả nặng nề do chính sách áp bức bóc lột và "chia để trị" mà đế quốc, thực dân để lại cùng với tâm lý kỳ thị chủng tộc, tôn giáo, sự bất bình đẳng về quyền lợi chính trị, kinh tế, xã hội, sự áp bức lẫn nhau thường là những nguyên nhân sâu xa dẫn đến các cuộc xung đột sắc tộc, tôn giáo, các cuộc đảo chính tranh giành quyền lực hoặc các xung đột khu vực mang mầu sắc tư tưởng, đối đầu Đông - Tây. Do đó các quốc gia châu Phi chưa thể ra khỏi tình trạng đói nghèo, chậm phát triển, và nguy cơ tụt hậu ngày càng lớn trong bối cảnh những tiến bộ của khoa học kỹ thuật, công nghệ mới, tin học v.v...thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất trên toàn cầu.
Khác với các châu lục khác trên thế giới, ở châu Phi, xu hướng phát triển đất nước không phải do sự vận động của các phương thức sản xuất trong xã hội quyết định, mà chủ yếu do hệ tư tưởng của giới cầm quyền ở từng nước chi phối. Vì vậy, suốt trong nhiều thập kỷ sau khi dành độc lập, đa số chính quyền các nước châu Phi dựa vào viện trợ, giúp đỡ từ bên ngoài để duy trì chế độ thống trị độc tài, trấn áp các lực lượng đối lập, phục vụ lợi ích của giới cầm quyền. Do đặc điểm tình hình kinh tế, chính trị, xã hội và tính chất cuộc đấu tranh dành độc lập ở từng nước, tại khu vực này đã hình thành ba khuynh hướng phát triển chủ yếu gồm: những nước được trao trả độc lập thông qua thương lượng thoả hiệp, chính quyền Trung ương do giai cấp tư sản mại bản hoặc phong kiến lãnh đạo thường lựa chọn con đường phát triển tư bản chủ nghĩa, bị lệ thuộc vào quỹ đạo của chủ nghĩa thực dân mới (Ma-rốc, Cốt-đi-voa, Nam Phi, Tuy-ni-di, Kê-ni-a, Ga-bông, Xê-nê-gan, Da-i-a v.v...). Trong khi đó, những nước dành độc lập thông qua đấu tranh vũ trang hoặc bằng bạo lực chính trị, giới lãnh đạo theo khuynh hướng dân tộc chủ nghĩa, có ý thức độc lập, tự chủ đã chọn con đường xã hội chủ nghĩa: A-rập (ai-cập, An-giê-ri, Li-bi, Ma-đa- gat-xca, Ga-na, Ghi-nê, Tan-da-ni-a, Dăm-bi-a, Bốt-xoa-na, Xô-ma-li v.v...). Còn những nước dành độc lập bằng đấu tranh vũ trang, bạo lực cách mạng, giới lãnh đạo có xu hướng tiến bộ, mác xít và trong quá trình đấu tranh được Liên Xô (trước đây), Cu-ba và các nước XHCN giúp đỡ, ủng hộ, vì vậy sau khi dành được chính quyền họ chủ trương phát triển đất nước theo khuynh hướng CHXH khoa học (Ang-gô-la, Mô-dăm-bích, Ê-ti-ô-pi-a, Công-gô(B) ). Tuy vậy, do xuất phát điểm thấp lại bị ảnh hưởng bởi các cuộc xung đột sắc tộc, tôn giáo, tranh giành quyền lực liên tiếp xẩy ra trong thời gian dài nên các nước châu Phi phát triển chậm, kinh tế khó khăn, tình hình chính trị, xã hội diễn biến phức tạp và luôn tiềm ẩn những yếu tố gây mất ổn định. Trên thực tế, trong nhiều năm qua, nền kinh tế của các nước châu Phi mất cân đối nghiêm trọng, chủ yếu dựa vào khai thác, xuất khẩu nguyên nhiên liệu với giá rẻ, trong khi phải nhập khẩu các sản phẩm công nghiệp, nông nghiệp và thiết bị với giá cao, tốc độ tăng trưởng kinh tế chậm, nợ nước ngoài ngày một tăng (đến nay lên tới 400 tỷ USD).
Đề cập vấn đề kinh tế, Ngân hàng thế giới nhận xét rằng trong các năm 1996-1997, châu Phi có tốc độ tăng trưởng là 5%, lạm phát ở mức độ vừa phải, đặc biệt khu vực Nam Xa-ha- ra có thể đạt mức tăng trưởng bình quân 4% trong 10 năm tới. Tình hình phát triển kinh tế có sự khác nhau giữa các vùng, tỷ lệ tăng trưởng của các nước Cộng đồng Trung Phi chỉ đạt 1,1%, các nước khối Ma-grép gồm An-giê-ri, Ma-rốc, Li-bi, Mô-ri-ta-ni và Tuy-ni-di đạt 1,7%; khu vực tiểu lục địa Xa-ha-ra đạt 3,3%, các nước Tây Phi đạt 3,5%; trong khi các nước ở miền Đông và Nam châu Phi duy trì được tốc độ tăng truởng bình quân khoảng 5% năm. Nguyên nhân dẫn đến kết quả trên là do từ năm 1994, nhờ có hoà bình ổn định tương đối nên nhiều nước châu Phi có điều kiện khôi phục sản xuất, thực hiện cải cách kinh tế, tăng cường hợp tác kinh tế khu vực, đồng thời tranh thủ viện trợ kỹ thuật từ bên ngoài. Các tổ chức kinh tế của Liên Hợp Quốc cho biết sự cải thiện của nền kinh tế châu Phi trong mấy năm trở lại đây là chưa chắc chắn, bởi còn chứa đựng yếu tố nhất thời, không đảm bảo cho sự phát triển bền vững trong tương lai. Vì xuất phát điểm thấp, khả năng tiếp thu khoa học kỹ thuật chậm nên kinh tế châu Phi thường bị thiệt hại do tác động tiêu cực của tự do hoá quá nhanh; hơn nữa trong quá trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới, do không đủ sức cạnh tranh, họ lại càng bị thua thiệt và tụt hậu rất nhiều so với các khu vực khác.
Trong những năm đầu thập kỷ 80, cục diện tình hình thế giới có nhiều thay đổi, châu Phi không còn là khu vực tranh giành ảnh hưởng và tập hợp lực lượng của các nước lớn; vì vậy từ chỗ Liên Xô (cũ) và Mỹ viện trợ ồ ạt về quân sự, kinh tế, ủng hộ chính trị đối với các nước đồng minh, nay họ điều chỉnh chiến lược, giảm đối đầu, giảm cam kết và viện trợ, đồng thời hợp tác với nhau trong việc giải quyết các xung đột khu vực nhằm tiếp tục duy trì ảnh hưởng lợi ích của họ. Trong thời kỳ chiến tranh lạnh, sự đối đầu, tranh giành ảnh hưởng giữa Liên Xô (cũ) và Mỹ, khu vực châu Phi chủ yếu tập trung vào các điểm nóng như Ang-gô-la, Mô-dăm-bích, Na-mi-bi-a, E-ti-ô-pi-a. Trong khi Liên Xô coi trọng ảnh hưởng chính trị hơn lợi ích kinh tế, thì Mỹ chú trọng cả mục đích chính trị, kinh tế, quân sự. Các nước và các tổ chức có quan hệ truyền thống với châu Phi như Pháp, Anh, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, I-ta-li-a và EU nói chung có nhiều lợi ích chính trị, quân sự, kinh tế ở châu Phi; họ có chung mục đích là phối hợp với Mỹ trong việc ngăn chặn ảnh hưởng của Liên Xô và CNXH tại khu vực vốn là thuộc địa cũ của họ, nhưng họ có mâu thuẫn, tranh giành lợi ích kinh tế với Mỹ.
Từ khi nguồn viện trợ, giúp đỡ từ bên ngoài bị cắt giảm, chính quyền Trung ương của nhiều nước châu Phi mất chỗ dựa cả về chính trị, kinh tế; mặt khác lại chưa kịp điều chỉnh chính sách nên không đủ khả năng điều hành, quản lý đất nước. Trong tình trạng khủng hoảng cả về kinh tế, chính trị, xã hội, những mâu thuẫn bộc tộc, bộ lạc và tôn giáo tranh giành quyền lực vốn tồn tại âm ỉ, nay bùng nổ dẫn đến các cuộc xung đột đẫm máu xẩy ra tại Xô-ma-li, Xu-đăng, Công-gô, Da-i-a, Ang-gô-la, Mô-dăm-bích, An-giê-ri, Li-bê-ri-a, Ru-an-đa, Bu-run-đi v.v...
Nhưng nhờ nỗ lực của cộng đồng quốc tế và bản thân các dân tộc châu Phi cũng mong muốn có hoà bình, ổn định để khôi phục kinh tế, cải thiện đời sống và phát triển đất nước, từ cuối những năm 70, đầu 80, một số nước đã tìm cách giải quyết xung đột hao người tốn của bằng giải pháp hoà bình, trên cơ sở dung hoà, nhìn nhận lợi ích chính đáng của nhau. Năm 1984, Mô-dăm-bích đã ký hiệp định Nơ-kô-ma-ti với chế độ phân biệt chủng tộc Nam Phi, theo đó Mô-dăm-bích không giúp đỡ Đại hội Dân tộc Phi (ANC) và đổi lại, Nam Phi không giúp lực lượng đối lập RENAMO chống phá Mô-dăm-bích. Tháng 12/1988, dưới sự trung gian của Mỹ-Xô, các bên Ang-gô-la, Cu-ba và Nam Phi đã ký Hiệp định hoà bình về Tây Nam Phi, theo đó Nam Phi trao trả độc lập cho Na-mi-bi-a theo Nghị quyết 435 của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc, Cu-ba rút quân khỏi Ang-gô-la. Hiệp định về hoà bình Tây Nam Phi đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc giải quyết xung đột ở Nam Phi, Mô-dăm-bích, Ang-gô-la. Chính quyền Ang-gô-la, Mô-dăm-bích cũng như Tổ chức Nhân dân Tây Nam Phi (SWAPO), Đại hội dân tộc Phi (ANC) của Nam Phi đã tiến hành đối thoại, tìm giải pháp hoà bình, thực hiện hoà giải dân tộc, thúc đẩy tiến trình hoà bình, ổn định tại khu vực miền Nam châu Phi. Một điểm khá nổi bật trong thập kỷ 80 là phong trào đấu tranh chống chủ nghĩa phân biệt chủng tộc A-pác- thai phát triển mạnh mẽ ở Nam Phi, tập hợp nhiều tầng lớp nhân dân kể cả giới kinh doanh, người da trắng và được sự ủng hộ rộng rãi của cộng đồng quốc tế, đặc biệt là các nước Tiền tuyến miền Nam châu Phi (Ang-gô-la, Mô-dăm-bích, Bốt-xoa-na, Tan-da-ni-a, Dăm-bi-a, Dim-ba-bu-ê).; Trước sức ép quốc tế (cấm vận vũ khí, trừng phạt kinh tế, cô lập về ngoại giao) và cuộc đấu tranh kiên cường và bền bỉ của nhân dân Nam Phi dưới sự lãnh đạo của Đại hội dân tộc Phi (ANC) và Đảng Cộng Sản Nam Phi, chế độ A-pác- thai nhận thấy là không thể tiếp tục cai trị như cũ được, nên tháng 8/1989, Tổng thống Nam Phi lúc đó là De Cleeck đã tiến hành cải cách dân chủ, từng bước xoá bỏ các đạo luật phân biệt chủng tộc, trả lại tự do cho các nhà hoạt động chính trị nổi tiếng, trong đó có ông Nen-xơn Man-đê-la, lãnh tụ của ANC, từng bị chế độ A-pác- thai giam cầm suốt 27 năm trời và chấp nhận chuyển giao quyền lực dần dần cho người da đen chiếm đa số ở Nam Phi. Tiếp đó chính quyền thiểu số da trắng Nam Phi tiến hành đối thoại với tất cả các lực lượng chính trị nhằm tìm giải pháp hoà giải, hoà hợp dân tộc, tiến tới xây dựng một nước Nam Phi mới đa chủng tộc.
Trong những năm 90, nhiều cuộc xung đột đi vào giải pháp. Tháng 5/1991, với sự trung gian của Mỹ-Xô và Bồ Đào Nha, chính phủ Ang-gô-la và UNITA ký Hiệp định hoà bình về Ang-gô-la và tiến hành bầu cử đa Đảng vào tháng 9/1992 với thắng lợi áp đảo của Đảng cầm quyền MPLA. ở Mô-dăm-bích , Chính phủ và RENAMO cũng ký Hiệp định đình chiến và tổ chức bầu cử vào tháng 10/1994 với thắng lợi tuyệt đối của Đảng cầm quyền FRELIMO. Tại Nam Phi và Mô-dăm-bích, tình hình diễn ra khá suôn sẻ. Sau cuộc tổng tuyển cử tự do dân chủ lần đầu tiên được tổ chức ở Nam Phi vào cuối tháng 4/1994, chính quyền da trắng Nam Phi đã chấp nhận kết quả cuộc bầu cử và Đại hội Dân tộc Phi (ANC) giành thắng lợi áp đảo tại Quốc Hội và Nghị viện địa phương đã lên nắm quyền. Ông N.Man-đê-la được cử làm Tổng thống, Chính phủ đoàn kết thống nhất dân tộc ra đời, chấm dứt 300 năm của chế độ A-pác- thai tàn bạo, đồng thời mở ra kỷ nguyên phát triển mới của cộng đồng các dân tộc Nam Phi. Tại Mô-dăm-bích, lực lượng đối lập RENAMO đã công nhận thắng lợi của Đảng cầm quyền FRELIMO trong cuộc bầu cử Tổng thống và Quốc hội. Riêng tình hình Ang-gô-la diễn ra phức tạp hơn vì phe đối lập UNITA không chấp nhận kết quả bầu cử, dùng lực lượng quân sự tấn công lấn chiếm, gây xung đột trở lại ở Ang-gô-la, nhưng cuối cùng do bị thất bại và trước sức ép quốc tế, họ buộc phải đồng ý chia xẻ quyền lực theo kết quả bầu cử, nên tháng 4/1997 đã thành lập Chính phủ liên hiệp ở Ang-gô-la có sự tham gia của 13 thành viên cao cấp của UNITA trong cương vị Bộ trưởng và Thứ trưởng. Mặc dù tình hình còn diễn biến phức tạp, nhưng triển vọng cho thấy Ang-gô-la sẽ tiếp tục tiến trình hoà bình, ổn định và hoà hợp, hoà giải dân tộc. Tại Ê-ti-ô-pi-a, tình hình lại diễn ra nhanh chóng hơn do lãnh đạo Ê-ti-ô-pi-a lúc đó không thức thời điều chỉnh chính sách nên đã bị lực lượng đối lập tấn công quân sự lật đổ vào tháng 5/1991, tiếp đó đã thành lập Chính phủ liên hiệp, tình hình đất nước đi dần vào ổn định. Riêng tình hình cục diện Xô-ma-li diễn ra bi thảm hơn nhiều so với các nước khác trong khu vực. Sau khi chính quyền củaTổng thống Xi-át Ba-rê bị lực lượng nổi dậy là Đại hội Thống nhất Xô-ma-li (USC) do A-li Mát-đi Mô-hám-mét cầm đầu lật đổ (5/1991), Xô-ma-li rơi vào tình trạng hỗn loạn, nạn cướp bóc, chém giết lẫn nhau cùng nạn đói và dịch bệnh đã đẩy đất nước này đến bên bờ vực thẳm. Trước tình hình đó, tháng 12/1992, trên cơ sở Nghị quyết của Liên Hợp Quốc, Mỹ và một số nước phương Tây đã đưa quân đội vào nhằm duy trì trật tự và giúp phân phối hàng cứu trợ. Tuy nhiên từ tháng 3/1193 khi lực lượng của Liên Hợp Quốc do Mỹ cầm đầu tiến hành giải giáp vũ khí đối với các lực lượng tham chiến thì họ gặp phải sự phản kháng quyết liệt của các phe phái ở Xô-ma-li, nhiều binh sỹ Mỹ bị giết hại, vì vậy Mỹ đã rút quân khỏi Xô-ma-li tháng 3/1995, và từ đó đến nay Xô-ma-li vẫn chưa có chính quyền Trung ương, hoà bình ổn định chưa được vãn hồi. Như vậy, cho đến nay, hầu hết các cuộc xung đột mang tính chất ý thức hệ đối đầu Đông -Tây hoặc những điểm nóng khu vực đã và đang được giải quyết, làm cho tình hình khu vực trong những năm gần đây phát triển theo hướng hoà dịu hơn.
Trong khi các cuộc xung đột mang tính chất ý thức hệ đi vào giải quyết thì xung đột sắc tộc, tôn giáo, tranh giành quyền lực lại bùng nổ dữ dội ở một số nơi. Đặc biệt chủ nghĩa Hồi giáo cực đoan có chiều hướng phát triển, gây mất ổn định tại nhiều nước Bắc Phi, Trung Phi và Đông Phi. Vấn đề sắc tộc, tôn giáo đã có từ lâu ở châu Phi mà nguyên nhân sâu xa là tâm lý kỳ thị chủng tộc, sự bất bình đẳng về kinh tế, chính trị, văn hoá giữa các bộ tộc, và do hậu quả của chính sách "chia để trị", sự áp đặt phân chia biên giới lãnh thổ của đế quốc, thực dân. Trong thời kỳ chiến tranh lạnh, đã xẩy ra xung đột sắc tộc, tôn giáo, như việc Bi-a-fra đòi li khai khỏi Ni-giê-ri-a năm 1967, xung đột miền Nam Xu-đăng, Ang-gô-la, Nam Phi, Ê-ti-ô-pi-a v.v...Nhưng lúc đó do đấu tranh về ý thức hệ, đối đầu Đông - Tây, nên việc tập hợp lực luợng là nhằm phục vụ cho cuộc đấu tranh này, vì vậy những mâu thuẫn về sắc tộc, tôn giáo không nổi lên mạnh. Sau chiến tranh lạnh, việc tập hợp lực lượng trên không còn nữa, cho nên các mâu thuẫn sắc tộc, tôn giáo vốn tồn tại âm ỉ nay bùng lên ở nhiều nơi như Ru-an-đa, Bu-run-đi, Da-i-a, An-giê-ri, Ai-cập. Riêng ở Ru-an-đa đã có gần 1 triệu người bị giết hại do tàn sát giữa hai bộ tộc, Hu-tu và Tút-si trong những năm 1994-1996. Tại vùng Hồ lớn (Hồ Victoria- lớn nhất thế giới), vấn đề xung đột sắc tộc giữa người Tút-si và người Hu-tu ở Ru-an-đa và Bu-run-đi vốn có từ lâu, trải qua nhiều cuộc xung đột đẫm máu và hiện nay vẫn còn căng thẳng. Tại Da-i-a (cũ), cuộc nổi dậy của người Ban-gia-mu-len-gi gốc Tút-si dưới sự lãnh đạo của Lau-ren Ca-bi-la tuyên thệ nhậm chức Tổng thống và lấy lại tên nước Cộng hoà Dân chủ Công Gô (K), được dư luận rộng rãi ở châu Phi và thế giới hoan nghênh. Điều đáng chú ý là từ đầu những năm 90, chủ nghĩa Hồi giáo cực đoan phát triển mạnh ở khu vực Tây A' và Bắc Phi, gây bất ổn định một số nước như An-giê-ri, Ai-cập, Xu-đăng, Pa-le-stin.
Chúng ta đều biết sau chiến tranh lạnh, cục diện đối đầu Xô- Mỹ không còn nữa, thay vào đó là sự hợp tác Nga- Mỹ đã làm tan rã hoặc thay đổi tính chất các liên minh chính trị, quân sự, kinh tế trên thế giới. Sau chiến tranh lạnh, Mỹ trở thành siêu cường duy nhất trên thế giới và đóng vai trò chủ đạo trong việc giải quyết các vấn đề Na-mi-bi-a, Ang-gô-la, Nam Phi, ký Hiệp định hoà bình Ai-cập ? I-xra-en, v.v... Tại các tiểu khu vực Trung, Đông, Bắc và Tây Phi, vốn là thuộc địa có nhiều ảnh hưởng của các nước Tây Âu và từ lâu được coi là "khu vườn cấm" của Pháp và của Anh, Mỹ đã từng bước thâm nhập về chính trị, kinh tế thông qua việc giải quyết khủng hoảng ở An-giê-ri, Ru-an-đa, Ê-ti-ô-pi-a, Công-gô, Da-i-a, Li-băng v.v... Mỹ cố gắng duy trì sự ổn định tương đối, dùng chiêu bài "bảo vệ nhân quyền", "dân chủ", quyền can thiệp nhân đạo, "chống khủng bố" để thâm nhập, can thiệp nhằm duy trì lợi ích chính trị, kinh tế, tăng cường ảnh hưởng của Mỹ, cạnh tranh và lấn át Tây Âu, Nga, Nhật Bản. Từ năm 1991 đến nay, 3 Hội nghị cấp cao Mỹ- châu Phi đã được tổ chức nhằm thúc đẩy quan hệ hợp tác giữa Mỹ và các nước châu Phi trên các lĩnh vực kinh tế, giáo dục, nông nghiệp, y tế. Mỹ đứng ra dàn xếp một số điểm nóng ở khu vực (Ang-gô-la, Nam Phi, Na-mi-bi-a, Vùng Hồ lớn). Đặc biệt Mỹ ủng hộ chính quyền mới tại Cộng hoà Dân chủ Công- Gô (Da-i-a cũ); tránh can thiệp quân sự, thông qua cơ chế Liên Hợp Quốc, dùng biện pháp "tìm sự nhất trí chung" để lôi kéo lực lượng đồng minh cùng giải quyết các xung đột. Mặc khác, Mỹ ra sức cổ vũ cải cách dân chủ, chế độ đa đảng, thúc ép cải cách kinh tế theo mô hình thị trường, tạo điều kiện thuận lợi cho sự thâm nhập, đầu tư của Mỹ, từng bước gạt ảnh hưởng của Pháp và Tây Âu, lôi kéo các nước châu Phi theo quỹ đạo của Mỹ. Tháng 10/1996, Ngoại trưởng Mỹ W.Christopher thăm 5 nước châu Phi (Ma-li, Ê-ti-o-pi-a, Tan-da-li-a, Ang-gô-la, Nam Phi) nhằm tăng cường sự hiện diện, vai trò và khả năng hành động của Mỹ ở châu Phi. Tiếp đó, chuyến thăm 6 nước châu Phi (Ê-ti-o-pi-a, Cộng hoà Dân chủ Công- Gô (Da-i-a cũ), Ru-an-đa, Nam Phi, Ang-gô-la, Dim-ba-bu-ê) của Bà Ngoại trưởng Mỹ M.Albright vào tháng 12/1997 là nhằm triển khai thêm một bước mới chính sách châu Phi của chính quyền Mỹ. Từ ngày 22/3 đến ngày 2/4/1998, Tổng thống Mỹ B. Clin-tơn đã thăm 6 nước châu Phi: Ga-na, Ru-an-da, U-gan-da, Nam Phi, Bốt-xa-noa, Xê-nê-gan. Cùng đi với Bill Clinton có các bộ trưởng Thương mại, Lao động, Giao thông vận tải và hơn 700 nhà kinh doanh Mỹ. Trong chuyến đi thăm này, ông B.Clin-tơn đã chủ trì cuộc họp thượng đỉnh Trung- Đông Phi tại U-ga-đa, (25/3/1998), gồm Tổng thống các nước U-gan-đa, Cộng hoà Dân chủ Công- Gô, Ru-an-đa, Ê-ti-o-pi-a, Tan-da-li-a, kê-ni-a, và Ngoại Trưởng Dim-ba-bu-ê. Tại cuộc họp này, ông B.Clin-tơn nêu chính sách mới của Mỹ đối với châu Phi dựa trên quan hệ kinh tế, thương mại, dân chủ, nhân quyền và chống hoạ diệt chủng. Mỹ công bố viện trợ cho Ga-na 67 triệu USD, viện trợ cho Ru-an-đa 32 triệu USD, phát triển kinh tế và đền bù cho nạn nhân của nạn diệt chủng; lập Quỹ tài trợ kinh tế 650 triệu USD cho châu Phi, đặc biệt là cho các nước đang cải cách kinh tế triệt để theo đường lối của IMF; viện trợ 180 triệu USD cho phát triển giao thông, y tế. Ông B.Clin-tơn cũng tuyên bố sẽ phối hợp với G-7 xoá nợ cho châu Phi 1,7 tỷ USD, trước mắt xoá nợ 30 triệu USD; đưa ra Sáng kiến ứng phó khủng hoảng ở châu Phi (ACRI) nhằm huấn luyện cho từ 10.000 đến 20.000 lính châu Phi triển khai nhanh trong trường hợp xẩy ra khủng hoảng. Chuyến thăm của Tổng thống Mỹ B.Clin-tơn diễn ra trong bối cảnh những năm gần đây, tình hình châu Phi đã có những bước phát triển mới về chính trị, kinh tế và nổi lên như một thị trường rộng lớn với hơn 700 triệu người, giầu có về tài nguyên, chứa đựng nhiều tiềm năng to lớn, thu hút sự chú ý của các cường quốc kinh tế thế giới, đặc biệt là sự tranh giành ảnh hưởng và lợi ích chính trị, kinh tế giữa Mỹ và Pháp, Anh nói riêng và các nước Tây Âu nói chung. Chuyến công du sang châu Phi của Tổng thống B.Clin-tơn nhằm mục đích mở rộng quan hệ kinh tế, thương mại Mỹ- Châu Phi, tăng cường ảnh hưởng của Mỹ ở Châu Phi, thực hiện bành trướng vào khu vực vốn là "vườn cấm" của các cường quốc như Pháp, Anh, mở đầu việc xoá bỏ khái niệm "khu vực ảnh hưởng" được hình thành từ sau chiến tranh thế giới II, thúc đẩy châu Phi phát triển theo chiều hướng toàn cầu hoá (nhằm giải quyết các vấn đè môi trường, bệnh tật, xung đột, nạn khủng bố, nạn diệt chủng...); triển khai chiến lược "tìm lại châu Phi" của Mỹ, theo đó Mỹ chuyển dần từ chính sách truyền thống là viện trợ trực tiếp sang coi trọng buôn bán, đầu tư. Mặc khác, Mỹ khuyến khích châu Phi phát triển theo hướng dân chủ, ổn định, tự do hoá về kinh tế v.v... nhằm tạo điều kiện cho giới thương mại, đầu tư Mỹ đi vào thị trường châu Phi mới mẻ và đầy tiềm năng này. Chuyến thăm của ông Clin-tơn còn nhằm mục đích cân bằng trong quan hệ của Mỹ với các châu lục khác, tranh giành ảnh hưởng với Pháp, Anh, Nga ở địa bàn châu Phi đồng thời tranh thủ cộng đồng người Mỹ gốc Phi (hiện chiếm 13% dân số Mỹ) trong việc tuyển cử giữa nhiệm kỳ tại Mỹ trong năm nay.
Đối với châu Phi, vấn đề cấp bách hiện nay là giải quyết các xung đột sắc tộc , tôn giáo, tranh giành quyền lực để có hoà bình, ổn định và phát triển kinh tế bằng chính nỗ lực của bản thân mình chứ không phải trông chờ can thiệp từ bên ngoài. Tình hình mới đòi hỏi các nước châu Phi phải điều chỉnh chính sách, thực hiện cải cách dân chủ, chuyển sang chế độ đa nguyên, đa đảng, thi hành chính sách kinh tế thị trường, đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ quốc tế. Trong thời kỳ chiến tranh lạnh đã có một số nước theo chế độ đa nguyên, đa đảng, kinh tế thị trường, nhưng cũng không ít nước châu Phi theo chế độ một đảng, kinh tế tập trung. Từ cuối thập kỷ 80, do tác động của cục diện tình hình thế giới, mô hình kinh tế theo kiểu tập trung quan liêu bao cấp không còn cơ sở để tồn tại ở châu Phi, trong khi đó mô hình kinh tế thị trường theo khuynh hướng tư bản chủ nghĩa, trào lưu tự do dân chủ xâm nhập mạnh vào khu vực; nhiều nước đã chuyển sang chế độ đa nguyên, đa đảng, kinh tế thị trường như An-giê-ri, Ang-gô-la, Mô-dăm-bích, Bê-nanh, Ghi-nê, Cáp-ve, Công-gô v.v...
Việc chuyển sang chế độ đa đảng, kinh tế thị trường có mặt tích cực là làm cho đời sống chính trị dân chủ hơn, tránh được tình trạng độc tài, quân phiệt, gia đình trị đã từng xẩy ra tại nhiều nước châu Phi, đồng thời tạo điều kiện phát huy năng lực sáng tạo của người dân, góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển. Tuy nhiên, trong điều kiện kinh tế, xã hội chưa phát triển, trình độ dân trí còn thấp, tính chất bộ tộc, bộ lạc, tôn giáo còn rất nặng nề, ý thức về tự do dân chủ còn chưa đầy đủ thì đa nguyên, đa đảng đã gây phức tạp ở nhiều nơi, một số nước lâm vào tình trạng nội bộ lục đục, tình hình đất nước bị xáo trộn, xung đột phe phái, tôn giáo, sắc tộc lại bùng lên như ở An-giê-ri, Công-gô (B), Da-i-a v.v... Điều đáng chú ý là một số nước duy trì được ổn định chính trị, khôi phục và phát triển kinh tế với tốc độ tăng trưởng khá như Bốt-xoa-na, Kê-ni-a, Dim-ba-bu-ê, Cốt-đi-voa, Ga-bông, trong khi chỉ có một đảng cầm quyền và rất ít đảng phái đối lập; vì vậy đa nguyên đa đảng không đồng nghĩa đem lại hoà bình ổn định và phát triển kinh tế, mà ngược lại, trong một số trường hợp, dân chủ, đa đảng trở thành một trong những yếu tố gây mất ổn định như đã xẩy ra ở An-giê-ri, Công-gô (B), Xô-ma-li v.v...
Nhìn chung, trong những năm gần đây, tuy còn nhiều khó khăn, tình hình châu Phi đã có những bước phát triển tiến bộ. Tăng trưởng kinh tế trung bình đạt khoảng 5% trong năm 1997, cải cách kinh tế theo hướng thị trường phát triển mạnh mẽ ở nhiều nước (hiện khu vực này có 14 thị trường chứng khoán); Tổ chức Thống nhất châu Phi (OUA)cũng như các tổ chức kinh tế khu vực, tiểu khu vực tăng cường hoạt động, phối hợp giải quyết một số vấn đề nội bộ châu Phi không có sự can thiệp của các nước lớn hoặc của Liên Hiệp Quốc. Hợp tác kinh tế, trao đổi thông tin, liên kết khu vực v.v... đã từng bước mang lại hiệu quả thiết thực đối với các nước châu Phi. Triển vọng tình hình cho thấy các điểm nóng, các cuộc xung đột sắc tộc, tôn giáo, tranh giành quyền lực ngày càng bị thu hẹp cả về không gian, thời gian, xu thế hoà bình, ổn định, hợp tác phát triển tiếp tục được củng cố. Các nước châu Phi sẽ nỗ lực xây dựng đất nước, lấy mục đích dân tộc làm mục tiêu cao nhất và xu hướng chung là dân chủ, đa đảng, kinh tế thị trường (hiện nay một nửa Chính phủ các nước châu Phi là do bầu cử và phát triển theo hướng chế độ dân chủ). Tuy nhiên, tình hình châu Phi còn khó khăn về kinh tế, mâu thuẫn nội bộ, vị trí quốc tế có mức độ. Hiện nay các nước châu Phi đang rất cần vốn, khoa học kỹ thuật, trình độ quản lý nhằm tiếp tục phát triển kinh tế, cải thiện đời sống nhân dân./.
nêu đặc dân cư trâu phi
Tham khảo
Sai chính tả gòi kìa:v
- Dân cư châu Phi phân bố rất không đều. Nhiều vùng rộng lớn hầu như không có người như vùng rừng rậm xích đạo, các hoang mạc Xa-ha-ra, Ca-la-ha-ri,...
- Hầu hết các vùng duyên hải ở phần cực Bắc và cực Nam của châu Phi, ven vịnh Ghi-nê và nhất là thung lũng sông Nin, dân cư tập trung rất đông.
- Tuy đa số dân cư sống ở nông thôn nhưng châu Phi vẫn có nhiều thành phố. Các thành phố lớn của châu Phi thường là các thành phố cảng
Nêu đặc điểm dân cư ở Bắc Phi và Nam Phi.
Đặc điểm dân cự Bắc Phi:
- Dân cư, tôn giáo: Bắc Phi chủ yếu là người Ả Rập và Béc be thuộc chủng tộc Ơ-rô-pê-ô-it theo đạo Hồi.
Đặc điểm của Nam Phi:
-Dân cư khu vực nam phi thuộc các chủng tộc nê-grô-it, ơ-rô-pê-ô-it và người lai, phần lớn theo đạo thiên chúa. trên đảo ma-đa-ga-xca có người man-gát thuộc chủng tộc môn-gô-lô-it.
Tại sao châu Phi có nhiều người nhiễm?
Vì nền khoa học và y tế của Châu phi còn kém phát triển
Vì Châu Phi có nhiều khu ổ chuột và kinh tế và xã hội chữa phát triển
trình bày về hiểu biết của em về dân cư và chính trị của châu phi
Châu Phi có nền văn minh sông Nin rực rỡ trong thời Cổ đại.
Dân cư châu Phi phân bố rất không đều. Đa số dân châu Phi sống ở nông thôn. Các thành phố có trên 1 triệu dân thưởng tập trung ở ven biển.
Bùng nổ dân số, xung đột tộc người, đại dịch AIDS và sự can thiệp của nước ngoài là những nguyên nhân chủ yếu kim hãm sự phát triển kinh tế xã hội ở châu Phi.
Địa hình châu Phi khá đơn giản. Có thể coi toàn bộ lục địa là một khối cao nguyên khổng lồ, cao trung bình 750m; trên đó chủ yếu là các sơn nguyên xen các bồn địa thấp. Phần đông của lục địa được nâng lên mạnh, nền đá bị nứt vỡ và đổ sụp, tạo thành nhiều thung lũng sâu, nhiều hồ hẹp và dài. châu Phi có rất ít núi cao và đồng bằng thấp.
Khoáng sảnChâu Phi có nguồn khoáng sản phong phú, là châu lục đang nắm giữ 90% lượng Cobalt, 90% Platin, 50% Vàng, 98% Crom, 70% Tantan[4], 64% Mangan và một phần ba lượng Urani của thế giới. Cộng hòa Dân chủ Congo có 70% lượng Coltan của thế giới. Guinea là quốc gia xuất khẩu Bô xít lớn nhất thế giới. Ngoài ra, còn có dầu mỏ và khí đốt.
KHÍ HẬU
Châu Phi có khí hậu nóng, nhiệt độ trung bình năm trên 20 °C, thời tiết ổn định. Lượng mưa tương đối ít và giảm dần về phía hai chí tuyến, hình thành những hoang mạc lớn, lan ra sát biển. Sa mạc Sahara là hoang mạc cát lớn nhất thế giới.
Các môi trường tự nhiên của châu Phi nằm đối xứng qua xích đạo:
- Môi trường xích đạo ẩm với thảm thực vật rừng rậm xanh quanh năm, gồm bồn địa Congo và miền duyên hải phía bắc vịnh Guinea.
- Hai môi trường nhiệt đới:càng xa Xích đạo lượng mưa càng giảm, rừng rậm nhường chỗ cho rừng thưa & xavan cây bụi. Nhờ nguồn thức ăn phong phú, xavan là nơi tập trung nhiều động vật ăn cỏ (ngựa vằn, sơn dương, hươu cao cổ...) và động vật ăn thịt (sư tử, báo gấm...)
- Hai môi trường hoang mạc, gồm sa mạc Sahara ở phía bắc & hoang mạc Kalahari, hoang mạc Namib ở phía nam. Khí hậu khắc nghiệt, mưa rất hiếm, biên độ nhiệt giữa ngày và đêm lớn. Thực vật, động vật nghèo nàn.
- Hai môi trường địa trung hải ở phần cực Bắc và phần cực Nam châu Phi. Mùa đông mát mẻ và có mưa, mùa hạ nóng và khô. Thảm thực vật là rừng cây bụi lá cứng.
vì sao nói châu mĩ là vùng đất của dân nhập cư thành phần chủng tộc đa dạng
Tham khảo:
*Nói châu Mĩ là vùng đất của dân nhập cư, thành phần chủng tộc đa dạng vì:
- Những luồng di dân trong quá trình lịch sử đã góp phần hình thành một cộng đồng dân cư năng động và đa dạng ở châu lục này.
-Dân cư có nguồn gốc từ 5 nhóm sắc tộc và 3 nhóm lai.
-Người bản địa Người đa đỏ, Inuit, và Aleut.
-Gốc Châu Âu chủ yếu là người Tây Ban Nha, người Anh, , người Ý, người Bồ Đào Nha, người Pháp, ...
Gốc da đen châu Phi, chủ yếu là từ Tây Phi.
Người châu Á, bao gồm các nhóm Đông Á, Nam Á và Đông Nam Á.
Những người có nguồn gốc từ Trung Đông Mestizo, .Mulatto, ...
Dân cư châu lục này chủ yếu có nguồn gốc di cư từ nơi khác tới sinh sống và phát triển tại nơi đây
Tham khảo :
−
Lịch sử nhập cư đã tạo nên thành phần chủng tộc đa dạng ở châu Mĩ. Trong quá trình chung sống, các chủng tộc này hòa huyết, làm xuất hiện các thành phần người Lai.
Giành độc lập, tách khỏi khối Liên hiệp Anh và thành lập nước Cộng hòa Nam Phi.
1. Khái quát về sự kiện
a. Thời gian, địa điểm
b. Bối cảnh xảy ra sự kiện
2. Nội dung chính của sự kiện
3. Ý nghĩa chính trị, kinh tế-xã hội của sự kiện
Em hiểu thế nào là phân biệt chủng tộc của Cộng hòa Nam Phi
Chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi ( gọi là A-pác-thai) là chế độ phân biệt chủng tộc từng được thực hiện ở Nam Phi từ năm 1948 đến năm 1991 khi chế độ này bị lật đổ. Trong thời chế độ này, người da đen không được giữ các chức vụ quan trọng, không có quyền bầu cử và không có quyền tự do, dân chủ......
Kim tự tháp Ai Cập là một trong những công trình kiến trúc cổ đại của nền văn minh Ai Cập cổ đại, công trình được xây dựng với hình chóp bằng đá với một tỷ lệ vô cùng hoàn hảo.
Hiện nay tại Ai Cập có tất cả là 138 kim tự tháp theo số liệu tính đến năm 2008. Và hầu như, kim tự tháp được xem như là lăng mộ của các Pharaoh cùng hoàng hậu trong thời kỳ Cổ vương quốc và Trung vương quốc.
Đặc điểm của kim tự tháp Ai Cập là có tất cả 138 kim tự tháp lớn nhỏ khác nhau
Được biết, các kim tự tháp Ai Cập đầu tiên năm ở vùng Saqqara thuộc phía Tây Bắc của Memphis. Trong đó kim tự tháp lâu đời nhất đó chính là Djoser được xây dựng vào triều đại thứ ba trong khoảng thời gian từ 2630 – 2611 TCN. Lối kiến trúc của những kim tự tháp đầu tiên này là do một kiến trúc sư là Imhotep thiết kế.
Kim tự tháp Ai Cập được xem là công trình bằng đá nguyên khối cổ nhất thế giới. Trong đó theo những nghiên cứu thì để xây được một công trình kim tự tháp thì lượng nhân công khoảng từ 20.000 – 100.000 người.
Trong toàn bộ các công trình kim tự tháp khác nhau thì tại thủ đô Cairo của Ai Cập có một công trình nổi tiếng nhất trên thế giới đó là quần thể kim tự tháp Giza. Trong đó, kim tự tháp Khufu được xem là công trình lớn nhất và được xem là kỳ quan của thế giới.
2. Lịch sử phát triển của Kim tự tháp Ai Cập2.1 Giai đoạn đầuTừ những giai đoạn đầu tiên của lịch sử Ai Cập cổ đại, thì lăng Mastaba được xem là nơi mai táng đầu tiên của người Ai Cập. Đây được xem như là kim tự tháp đầu tiên của nền văn minh này.
Kim tự tháp Ai Cập thứ 2 được nhắc đến là Djoser. Được xem là lăng mộ của Pharaoh Djoser do kiến thức sư Imhotep đích thân thiết kế và khởi công xây dựng. Qua đó mà Imhotep được xem như là một nhà kiến trúc sư đầu tiên trong lịch sử Ai Cập, và cũng là người đầu tiên phát minh ra phương pháp xây dựng chồng các Mastaba lên nhau để có thể tạo ra một công trình hình chóp với các bậc nhỏ dần từ dưới lên đến đỉnh gọi là kim tự tháp.
Qua đó mà ông đã xây dựng thành công công trình kim tự tháp như một chiếc cầu thang để linh hồn của pharaoh có thể bước lên thiên đàng. Nhờ thế mà Imhotep được người dân Ai Cập ngưỡng mộ và được thờ cúng như một vị thần.
2.2 Giai đoạn tiếpDần dần, kim tự tháp trở thành một biểu tượng quyền lực của người Ai Cập cổ đại. Việc Kim tự tháp Ai Cập được xây dựng với quy mô lớn thì cũng là lúc chế độ chuyên quyền của Pharaoh ở mức độ cao nhất. Qua đó mà các kim tự tháp lớn và nổi tiếng nhất như Giza đã được xây dựng trong giai đoạn này. Về sau, quyền lực trở nên bị phân tán dần, mức độ xây dựng cũng thu hẹp dần, không còn được cầu kỳ và chú trọng như trước nữa.
Rất lâu sau đó nữa, khi Ai Cập trong thời kỳ bị rơi vào ách thống trị của các vị vua Napata, việc xây dựng các công trình kim tự tháp Ai Cập một lần nữa phát triển ở vùng Sudan ngày nay. Qua đó, số lượng công trình ở thời đại này là khoảng 200 lăng mộ kim tự tháp lấy ý tưởng từ kim tự tháp trước đó và được xây dựng gần trung tâm vương quốc Sudan Meroe (300 TCN – 300 SCN).
2.3 Hiện NayHiện nay, các kim tự tháp Ai Cập cũng đã bị mai một dần theo thời gian cũng như trong lịch sử cho nhân vật Al-Aziz Uthman là con trai của Saladin, người đánh bại các cuộc Thập tự chinh ở nơi đây. Ông ta cố gắng phá bỏ các lăng mộ Ai Cập nhưng dường như không thể vì quy mô của nó là vô cùng lớn.
3. Ý nghĩa tượng trưng của kim tự tháp Ai CậpÝ nghĩa của kim tự tháp Ai Cập bao gồm:
3.1 Là một công trình cổ đại hùng vĩCác kim tự tháp Ai Cập cũng sẽ có những ý nghĩa tượng trưng riêng. Hình dáng của nó được coi là tượng trưng cho những mô đất nguyên thủy linh thiên mà người Ai Cập tin là trái đất được tạo ra từ vùng đất ấy cùng như là nơi mà các tia nắng chiếu xuống đầu tiên.
Bề mặt bên ngoài của Kim tự tháp được làm bằng đá vôi trắng được đánh bóng nên tạo ra một vẻ ngoài vô cùng lộng lẫy khi chung ta đứng nhìn từ xa. Ngoài ra các tên gọi của kim tự tháp cũng được đặt theo ý nghĩa có liên quan đến mặt trời như Kim tự tháp Cong tại Dahshur có nghĩa là “tỏa sáng tại phía Nam”.
Kim tự tháp có ý nghĩa gì? Biểu tượng kim tự tháp Ai Cập được xem là công trình mai táng của người Ai Cập cổ nhưng thực sự vẫn đang còn rất nhiều tranh cãi về công trình cổ đại này, người ta nhận thấy có nhiều sự bất đồng về nguyên lý thần học cụ thể cũng như chưa xác định rõ mục đích chính của việc xây dựng này. Có giả thuyết cho rằng kim tự tháp còn là một “cỗ máy hồi sinh”.
Điều này xuất phát từ tín ngưỡng xa xưa, người Ai Cập tin rằng những vì sao trên trời buổi đêm, nơi mà tất cả các ngôi sao đều xoay quanh thì đó chính là cánh cổng để lên thiên đường. Qua đó mà khi được mai táng ở vị trí đắc địa ấy thì người chết có thể dễ dàng lên được thiên đường, về với các vị thần.
Người chết trước khi lên thiên đàng sẽ có một buổi phán quyết tại “sảnh sự thật” dưới địa ngục cùng với thần Osiris và nữ Thần Maat. Dựa vào những việc mà người chết đã làm khi còn sống mà sẽ quyết định linh hồn sẽ bị đày đọa hay được sống nơi thiên đàng.
Một điểm chung đặc biệt chính là các công trình Kim tự tháp Ai Cập đều được xây dựng dọc trên tả ngạn sông Nile, nơi đây được xem là nơi mặt trời lặn và là nơi liên quan đến thế giới bên kia cửa tử.
4. Quần thể công trình kim tự tháp GizaMột trong những công trình kim tự tháp Ai Cập nổi tiếng nhất đó chính là quần thể kim tự tháp Giza. Đây được coi là một địa điểm khảo cổ trên cao nguyên Giza nằm ở ngoại ô Cairo, Ai Cập. Kim tự tháp Giza có tiếng Ả Rập là أهرامات الجيزة với nghĩa là “các kim tự tháp của Giza”.
Quần thể di tích khảo cổ này gồm 3 khu phức hợp bao gồm các kim tự tháp vĩ đại nhất cùng tượng điêu khắc Đại nhân sư, quanh đó còn có một số nghĩa trang, khu ở của công nhân cùng các khu công nghiệp. Khu quần thể di tích kim tự tháp này nằm ở sa mạc phía tây cách 9km về phía sông nile, thuộc thị trấn Giza cách trung tâm thủ đô Cairo khoảng 13km.
Qua đó, các Kim tự tháp là một biểu tượng của Ai Cập cổ đại và phổ biến, được biết đến nhiều trong nền văn minh Hy Lạp khi mà Kim Tự Tháp được đưa vào danh sách là 1 trong 7 kỳ quan của thế giới. Cho đến bây giờ, kim tự tháp Ai Cập vẫn là một biểu tượng bất diệt với thời gian là kỳ quan cổ đại duy nhất tồn tại nguyên vẹn.
Khu quần thể Kim tự tháp Giza hiện đangg thu hút rất nhiều du khách
Khu lăng mộ của quần thể Giza bao gồm Kim tự tháp Khufu, kim tự tháp Khafre, kim tự tháp Menkaure cùng với một số công trình khác cùng với đó là có thêm tượng điêu khắc đại nhân sư cao hùng vĩ. Chưa hết mà quần thể này còn có những lăng mộ hoàng gia của giới quý tộc, tăng lữ hay các quan chức cao cấp. các lăng mộ thuộc thời Vương triều mới hay các ngồi đền thờ linh thiêng bày tỏ sự kính trọng tại nơi đây.
Quần thể kim tự tháp Giza có kim tự tháp Khafre là được lưu giữ tốt nhất và hầu như nguyên vẹn nhất trong quần thể, còn giữ được lớp bóng ốp phía bên ngoài, nhất là ở trên đỉnh. Lưu ý rằng có vẻ Khafre lớn hơn kim tự tháp Khufu vò có gò đất cao hơn cũng như góc nghiêng khi xây dựng dường như cũng lớn hơn nhiều. Nhưng thực tế thì nó nhỏ hơn Khufu về trọng lượng lẫn khối lượng.
Qua đó, điểm huyền bí của Kim tự tháp Ai Cập đã thu hút nhiều khác du lịch ưa khám phá đến với nơi đây để chiêm ngưỡng công trình vĩ đại từ 4000 năm về trước. Thực chất công trình này đã trở nên rất nổi tiếng tại thời Hy Lạp cổ đại và ngày nay nó là một kỳ quan mà cả thế giới đều phải chiêm ngưỡng.
Kim tự tháp Ai Cập được người nước ngoài xem là một nơi xa xôi ở sa mạc, mặc dù là nó nằm ở thành phố thủ đô và là nơi đông đúc và sầm uất nhất châu Phi. Cho đến bây giờ, với sự phát triển của xã hội mà kiến trúc này không còn được xem là năm ở vùng hoang vu nữa mà ngày càng có nhiều du khách đổ xô đến nơi đây để du lịch hơn.
Vì thế, du lịch châu Phi, đến với thủ đô Cairo chắc chắn sẽ không bỏ qua được công trình kim tự tháp này. Đây là công trình nhân tạo vĩ đại nhất với các khối đá được chạm khắc tinh xảo, xếp chồng lên nhau một cách hoàn hảo và vừa khít với độ cao lên đến 146,5 m.
Kim tự tháp Giza có hướng quay mặt về đúng điểm cực Bắc của trái đất và điểm đặc biệt của ba kim tự tháp là Khufu, Khafre và Menkaure nằm thẳng hàng và đúng vị trí của chòm sao thắt lưng Orion. Qua đó có thể thấy văn hóa và sự phát triển của chiêm tinh học của người Ai Cập có tính chuẩn xác cực kỳ cao.
Qua đó mà cũng có rất nhiều những giả thuyết huyền bí về kim tự tháp Giza này. Bắt nguồn từ vị vua Orion Pharaoh, được coi là vị vua Ai Cập cao quý bậc nhất. Người được xem là được thần linh lựa chọn và là trung gian để kết nối giữa con người với thần linh trên cao. Vì thế mà tên ông ấy cũng được dùng để đặt cho chòm sao Orion hiện nay.
Hiện nay, Kim tự tháp Ai Cập Giza được xem như một công trình kiến trúc cổ đại cũng như là một địa điểm du lịch lý tưởng cho những ai yêu thích những điều cổ xưa. Qua đó, mà nó xem là một tuyệt tác của người xưa để lại, là dấu tích của lịch sử, của thời gian. Mặc dù bị bào mòn bởi thời gian nhưng nó chưa bao giờ khiến du khách cũng như giới nghiên cứu khảo cổ ngừng thích thú khám phá và tìm hiểu.
Nguồn: aloviet.vn
Từ khoá: Kim tự tháp Ai Cập – Biểu tượng cổ đại của thế giới