giải thích tại sao các bậc khí ở cốc thí nghiệm khi càng lên cao càng nhỏ dần và vỡ ra
giải thích tại sao các bậc khí ở cốc thí nghiệm khi càng lên cao càng nhỏ dần và vỡ ra
Khi nước reo, nhiệt độ của cốc thí nghiệm chưa nóng đều, nước ở phái dưới đáy cốc nóng hơn phía trên. Bọt khí bao gồm có không khí và hơi nước. Khi từ đáy cốc nổi lên thì thể tích bọt khí giảm do không khí lạnh đi nên thể tích thu nhỏ lại và hơi nước ngưng tụ lại thành nước do gặp nhiệt độ thấp hơn nên bị vỡ tung
Ở 0 độ C the tích của dau trong can là 6 lít từ 0 độ C đến 50 độ C, một lít tăng 55cm3 tìm thể tích của dau trong can trong 50 độ C
Các bạn chỉ dum mình nha
Nếu dc thì các bạn trình bày thành bài giải luôn nha
Cam ơn
Thể tích tăng thêm của dầu khi tăng nhiệt độ từ 0 đến 50 độ C là:
6.55=330 (cm\(^3\))
Đổi 330 cm\(^3\)= 0,33 lít
Thể tích của dầu trong can trong nhiệt độ 50 độ C là:
6+0,33=6,33 (lít)
Do cac ban : Tai sao cac chat khi khac nhau no vi nhiet la giong nhau ?
Ai dung minh like cho nha
(Cái này rất khó, có thể nằm ngoài kiến thức lớp 6 )
Có người giải thích quả bóng bàn bị bẹp, khi được nhúng vào nước nóng sẽ phồng lên như cũ, vì vỏ bóng bàn gặp nóng nở ra và bóng phồng lên. Hãy nghĩ ra một thí nghiệm chứng tỏ cách thích trên là sai.
Help me.😭😭😭
Bạn làm thí nghiệm sau nhé :
Bước 1 : Chọc thủng một quả bóng bàn
Bước 2 : Làm bẹp quả bóng bàn đó
Bước 3 : Nhúng quả bóng bàn bị bẹp đó vào một chậu nước nóng
Kết quả là bóng không nở ra, từ đó suy ra " quả bóng bàn phông lên như trước không phải do vỏ bóng bàn gặp nước nóng nở ra. ( Sở dĩ quả bóng bàn không phồng lên vì do quả bóng khi gặp nóng, lượng khí bên trong quả bóng nở ra nhưng theo lỗ hổng bay ra ngoài, còn nếu quả bóng không bị thủng thif lượng khí nở ra vì nhiệt đó bị cản bởi vỏ quả bóng, gây ra một lực lớn, làm bóng phồng lên. )
Chúc bạn học tốt !
Ta chỉ cần dùi một lỗ nhỏ ở quả bóng bàn bị bẹp rồi nhúng vào nước nóng khi đó nhựa của quả bóng bàn sẽ làm cho bóng vổng lên nhưng không làm cho bóng phồng lên được
Mình đố các bạn ;
Khí naò là nhẹ nhất trong tất cả loại khí ? Cho ví dụ .
thông tin về khí nhẹ nhất Hidro
Khí nhẹ nhất là khí Hidro. Khối
lượng riêng của nó chỉ bằng
1/14,5 của không khí. Năm 1783
lợi dụng tính chất này của hidro
người ta đã thả vào không trung
quả khí cầu bơm đầy khí hidro
và có mang theo các dụng cụ đo
lường. Ngày nay người ta vẫn
dùng những khí cầu có chứa
hidro hoặc hỗn hợp của hidro
và heli để nghiên cứu khoa học
và vận tải.
Khí nặng nhất, ở dạng đơn chất
là khí rađon, khối lượng riêng
của nó gấp 111 lần khí hidro.
thông tin về khí nhẹ nhất Hidro
Khí nhẹ nhất là khí Hidro. Khối
lượng riêng của nó chỉ bằng
1/14,5 của không khí. Năm 1783
lợi dụng tính chất này của hidro
người ta đã thả vào không trung
quả khí cầu bơm đầy khí hidro
và có mang theo các dụng cụ đo
lường. Ngày nay người ta vẫn
dùng những khí cầu có chứa
hidro hoặc hỗn hợp của hidro
và heli để nghiên cứu khoa học
và vận tải.
Khí nặng nhất, ở dạng đơn chất
là khí rađon, khối lượng riêng
của nó gấp 111 lần khí hidro.
khí Co2 có thể chiếm chỗ của C2 đc ko vậy ạ?
ví dụ : bình nước ko bao giờ rỗng, sẽ có C2 ở trong đó. Vậy co2 có thể tự vào trong bình đc ko ạ
có thể vì khí CO2 hay còn đc gọi là khí cacbonic,khí này chỉ chiếm một lượng ít trong C2 nhung da phan khi C2 van la nhieu nhat
Phải có điều kiện gì thì quả bóng bàn bị móp, được nhúng vào nước nóng mới có thể phồng lên?
Trong trường hợp quả bóng bàn bị móp lại đồng thời bị nứt thì khi thả vào nước nóng không thể phồng lên được, vì không khí trong bóng nở ra sẽ theo vết nứt ra ngoài. Nếu quả bóng bàn bị móp, nhưng không bị nứt thì khi thả bóng vào nước nóng, không khí nở ra nhưng không thoát ra ngoài được, nên đẩy vào vỏ và làm phồng bóng lên
điều kiện nước phải nóng
vì:chất khí nở ra vì nhiệt
trong sách có đó bạn
Điền vào chỗ trống những từ thích hợp sau:
a) Các chất khí khác nhau nở vì nhiệt ... nhau.
b) Các chất khí nở vì nhiệt ... hơn chất lỏng, chất lỏng nở vì nhiệt ... hơn chất rắn.
1. Giống
2.Khác
3. Nhiều (x2)
4. Ít (x2)
a) Các chất khí khác nhau nở vì nhiệt giống nhau.
b) Các chất khí nở vì nhiệt nhiều (x2) hơn chất lỏng, chất lỏng nở vì nhiệt nhiều (x2) hơn chất rắn.
a) Các chất khí khác nhau nở vì nhiệt 1. Giống nhau.
b) Các chất khí nở vì nhiệt 3. Nhiều (x2) hơn chất lỏng, chất lỏng nở vì nhiệt 3. Nhiều (x2) hơn chất rắn.
Chọn từ thích hợp trong khung để điền vào chỗ trống của các câu sau:
a) Thể tích khí trong bình(1)…………… khi khí nóng lên.
b) Thể tích khí trong bình giảm khi khí(2)…….
c) Chất rắn nở ra vì nhiệt(3)…………………, chất khí nở ra vì nhiệt (4)………
Chọn từ thích hợp trong khung để điền vào chỗ trống của các câu sau:
a) Thể tích khí trong bình (1) tăng khi khí nóng lên.
b) Thể tích khí trong bình giảm khi khí (2) lạnh đi.
c) Chất rắn nở ra vì nhiệt (3) giống nhau, chất khí nở ra vì nhiệt (4) khác nhau.
A) tăng
B)lạnh đi
C) nóng ra
mik làm thế bn coi phải đúng ko nha
Giải thích nguyên tắc hoạt động của đèn trái ?
Khi đóng công tắc thì toàn bộ điện áp đặt vào hai tiếp điểm của tắc te làm xảy ra phóng hồ quang trong tắc te. Thanh lưỡng kim của tắc te biến dạng do nhiệt dẫn đến tiếp điểm động tiếp xúc với tiếp điểm tĩnh mạch kín dòng điện chạy trong mạch đốt nóng các điện cực. Hồ quang mất, thanh lưỡng kim nguội đi dẫn đến "mở mạch" dẫn đến việc tạo lên quá điện áp cảm ứng (do chấn lưu) làm xuất hiện hiện tượng phóng điện qua chất khí trong đèn. Hiện tượng phóng điện phát ra rất nhiều tia tử ngoại, các tia này kích thích bột huỳnh quang làm phát ra các bức xạ ánh sáng. Khi ấy thuỷ ngân sẽ bốc hơi và hơi thuỷ ngân sẽ duy chì hiện tượng phóng điện. Khi đèn sáng chấn lưu hạn chế dòng điện và ổn định phóng điện.
Ngày nay bạn gặp đèn huỳnh quang ở khắp mọi nơi--trong văn phòng, cửa hàng, nhà kho, góc phố...bất cứ đâu. Nhưng thậm chí khi nó xuất hiện khắp mọi nơi, thiết bị này vẫn là một bí ẩn đối với hầu hết mọi người. Chuyện gì đã xảy ra trong cái bóng đèn tube trắng?
Nguyên tử giải phóng ra photon khi các electron của chúng được kích thích. Chúng ta biết rằng electron là hạt mang điện tích âm quay quanh hạt nhân nguyên tử (mang điện tích dương). Các electron của một nguyên tử mang nhiều mức năng lượng khác nhau, tùy thuộc vào nhiều hệ số, bao gồm tốc độ và khoảng cách đến hạt nhân. Các electron ở các mức năng lượng khác nhau xuất hiện nhiều obital khác nhau. Nói chung electron ở mức năng lượng lớn nhất chuyển động trong obital xa nhất so với hạt nhân.
Khi nguyên tử nhận hay mất đi năng lượng, sự thay đổi được thể hiện qua sự chuyển động của electron. Khi một cái gì đó làm tăng năng lượng của nguyên tử--nhiệt chẳng hạn--electron tạm thời nhảy lên mức obital cao hơn (xa hạt nhân hơn). Electron chỉ giữ ở vị trí này trong một phần rất nhỏ của giây; gần như ngay lập tức, nó được kéo lại về phía hạt nhân và trở về obital gốc của nó. Khi nó trở về obital gốc của nó, electron giải phóng năng lượng dưới dạng photon, ở một vài trường hợp là ánh sáng photon.
Tần số của sóng ánh sáng phát ra phụ thuộc vào lượng năng lượng được giải phóng, lượng năng lượng này lại phụ thuộc vào vị trí của electron. Vì vậy các nguyên tử khác nhau sẽ giải phóng ra loại photon ánh sáng khác nhau. Nói cách khác, màu sắc của ánh sáng được quy định bởi loại nguyên tử được kích thích.
Đây là cơ chế làm việc của hầu hết các loại nguồn sáng. Sự khác biệt chính giữa các nguồn sáng này là cách thức kích thích các nguyên tử. Ở một nguồn sáng đốt nóng, ví dụ như bóng đèn dây tóc hoặc đèn khí, nguyên tử được kích thích bởi nhiệt. Đèn huỳnh quang là một trong những hệ thống kích thích nguyên tử phức tạp nhất. Chúng ta hãy xem ở phần kế tiếp.
3. Trong tube đèn
Nhân tố trung tâm trong đèn huỳnh quang là một cái ống thủy tinh kín, gọi là ống đèn. Ống này có chứa một lượng nhỏ thủy ngân và một loại khí trơ, thường là argon, được giữ ở áp suất thấp. Ống còn chứa bột phốt pho, phủ đầy thành thủy tinh bên trong. Ống có 2 điện cực, mỗi cực ở mỗi đầu, các cực này được nối dây thành một mạch điện. Mạch điện này được nối đến nguồn điện xoay chiều, chúng ta sẽ khảo sát kỹ hơn về mạch này trong các phần sau.
Khi bạn bật đèn lên, dòng điện chạy qua mạch điện tại các điện cực. Có một lượng điện áp đáng kể đặt lên các điện cực, vì vậy electron sẽ chạy qua chất khí từ cực này đến cực kia của ống. năng lượng này làm thay đổi thủy ngân trong ống từ trạng thái lỏng sang trạng thái khí. Vì các electron và các điện tử mang điện tích chạy xuyên qua ống, một số trong số chúng va chạm vào các nguyên tử khí thủy ngân. Các sự va chạm này kích thích các nguyên tử, đẩy các eletron lên mức năng lượng cao hơn. Khi eletron trở lại mức năng lượng nguyên thủy của nó, chúng giải phóng các photon.
Như chúng ta thấy ở phần cuối, tần số sóng của photon được xác định bởi sự sắp xếp các electron riêng biệt trong nguyên tử. Các electron trong nguyên tử thủy ngân được sắp xếp theo cách mà hầu như chúng giải phóng photon trong dải sóng vùng tia cực tím. Mắt chúng ta không nhận biết được các photon vùng cực tím, vì vậy để đèn phát sáng loại ánh sáng này cần chuyển đổi thành dạng ánh sáng nhìn thấy được.
Đây là nơi của ống mà bột photpho bao phủ. Photpho là chất phát ra ánh sáng khi chúng được phơi vào ánh sáng. Khi một photon đập vào nguyên tử photpho, một trong các electron của photpho nhảy vào mức năng lượng cao hơn và nguyên tử nóng lên. Khi electron rơi về mức năng lượng bình thường của nó, nó sẽ giải phóng năng lượng dưới dạng photon khác. Photon này có năng lượng nhỏ hơn các photon gốc, vì một lượng năng lượng bị tiêu tán dưới dạng nhiệt. Trong một đèn huỳnh quang, ánh sáng được phát ra ở phổ nhìn thấy được – photpho phát ra ánh sáng trắng như chúng ta có thể thấy. Nhiều nhà sản xuất có thể thay đổi màu sắc của ánh sáng bằng cách sử dụng các hợp chất photpho khác nhau.
Bóng đèn nung sáng truyền thống cũng phát ra một lượng nhỏ tia cực tím hữu ích, nhưng chúng không thể chuyển sang dạng ánh sáng nhìn thấy được. Vì thế một lượng lớn năng lượng để đốt đèn nung sáng bị lãng phí. Đèn huỳnh quang bắt các tia không nhìn thấy được phải làm việc, biến chúng thành dạng nhìn thấy được, và vì vậy hiệu quả chiếu sáng hơn. Nói chung, một đèn huỳnh quang thông thường có hiệu quả chiếu sáng hơn gấp 4 đến 6 lần so với đèn nung sáng. Tuy nhiên, con người vẫn sử đụng đèn nung sáng trong nhà, vì chúng phát ra ánh sáng ấm – ánh sáng có màu đỏ nhiều và kém xanh.
Như chúng ta đã thấy, toàn bộ hệ thống đèn huỳnh quang phu thuộc vào dòng điện chạy qua chất khí trong ống thủy tinh. Phần kế tiếp, chúng ta sẽ nghiên cứu về cái mà đèn huỳnh quang cần để tạo nên dòng điện này.