Bài 1. Sơ lược về môn Lịch sử

Phạm Hà Vy
Xem chi tiết
Vu Ngoc Huyen
22 tháng 9 2016 lúc 14:52

Để hiểu được về lịch sử và dựng lại bức tranh lịch sử,chúng ta dựa vào các nguồn tài liệu chính là:

+Tư liệu truyền miêng

+Tư liệu chữ viết

+Tư liệu hiện vật

Bình luận (0)
Phạm Thị Thạch Thảo
3 tháng 9 2017 lúc 16:58

Để hiểu được lịch sử và dựng lại bức tranh lịch sử, chúng ta dựa vào các nguồn tài liệu chính là:

+ Tư liệu truyền miệng.

+ Tư liệu hiện vật.

+ Tư liệu chữ việt.

Bình luận (0)
Phạm Phương Thảo
14 tháng 9 2017 lúc 21:03

Để hiểu được lịch sử và dựng lại bức tranh lịch sử , chúng ta dựa vào các nguồn tài liệu là + Tài liệu truyền miệng

+ Tài liệu hiện vật

+ Tài liệu chữ viết

Bình luận (1)
Vũ Thu Hiền
Xem chi tiết
Dương Hạ Chi
20 tháng 8 2017 lúc 14:13

Trong suốt chiều dài lịch sử, cư dân Thái Bình phải thường xuyên chống chọi với thiên tai, địch họa. Hoàn cảnh ấy góp phần hình thành, hun đúc nên truyền thống bất khuất, cần cù, thông minh, sáng tạo của người dân Thái Bình trong chiến đấu, lao động, sản xuất. Truyền thống hiếu học, đỗ đạt khoa bảng cũng là nét nổi bật trong văn hóa Thái Bình. Chính những yếu tố đó đã tạo cho Thái Bình có một kho tàng di sản văn hóa vô cùng phong phú, đa dạng và giá trị.

Chùa Keo, xã Duy Nhất, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình.

Một trong những thành tố trong kho tàng di sản văn hóa đó là các di tích lịch sử văn hóa, những bằng chứng xác thực, cụ thể về đặc điểm lịch sử, văn hóa của một dân tộc. Ở đó chứa đựng tất cả những gì thuộc về truyền thống tốt đẹp, kỹ năng, kỹ xảo và trí tuệ của con người. Các di tích lịch sử văn hóa chính là những thông điệp của quá khứ được thế hệ trước trao truyền cho thế hệ sau, ở đó người ta đã cảm nhận được quá khứ, và từ đó tìm đến với truyền thống lịch sử, những giá trị đạo đức, thẩm mỹ, tín ngưỡng, tâm linh. Trên cơ sở truyền thống lịch sử, các thế hệ đi sau tiếp nối và sáng tạo những giá trị văn hóa mới.

Tính đến năm 2015, toàn tỉnh Thái Bình có tổng số 2.539 di tích, đã và chưa được xếp hạng, trong đó, đậm đặc nhất là ở các huyện: Hưng Hà (667 di tích), Thái Thụy (447 di tích), Quỳnh Phụ (351 di tích), Vũ Thư (298 di tích),... Thống kê cho thấy, Thái Bình là tỉnh có số lượng di tích khá lớn nhưng mật độ di tích phân bố ở các huyện không đồng đều. Di tích tập trung dày đặc ở ba huyện là Hưng Hà, Thái Thụy và Quỳnh Phụ với 1.495 di tích (chiếm trên 50% tổng số di tích toàn tỉnh). Trong khi đó, thành phố Thái Bình chỉ có 85 di tích.

Tỉnh có 2 di tích được xếp hạng cấp Quốc gia đặc biệt, là di tích kiến trúc nghệ thuật Chùa Keo (huyện Vũ Thư) và di tích lịch sử Khu lăng mộ và đền thờ các vị vua triều Trần (Hưng Hà). 151 di tích được xếp hạng cấp quốc gia, trong đó chủ yếu là các di tích thuộc loại hình kiến trúc nghệ thuật, tập trung nhiều nhất ở các huyện Hưng Hà (29 di tích), Thái Thụy (29 di tích) và huyện Đông Hưng (23 di tích). Nghiên cứu kết quả xếp hạng di tích cho thấy Thái Bình có nhiều di tích kiến trúc nghệ thuật vào thời Lê, sau đó được trùng tu và xây dựng lại vào thời Nguyễn. Vì vậy, trong quyết định xếp hạng, các di tích này được xác định có niên đại vào thời Lê – Nguyễn. Đó là những công trình kiến trúc nghệ thuật có giá trị tiêu biểu, cần được quan tâm trong quá trình bảo tồn và phát huy giá trị của các di tích cấp quốc gia.

Thái Bình hiện có 595 di tích đã được xếp hạng cấp tỉnh, trong đó, huyện Hưng Hà có 109 di tích, Đông Hưng có 91 di tích, Quỳnh Phụ có 92 di tích, Thái Thụy có 88 di tích, Tiền Hải có 68 di tích, Kiến Xương có 57 di tích, Vũ Thư có 62 di tích và thành phố Thái Bình có 28 di tích.

Theo tư liệu thống kê của Ban Quản lý di tích tỉnh Thái Bình, hiện nay, toàn tỉnh còn 1.791 di tích chưa được xếp hạng. Trong số đó có nhiều di tích ở các loại hình khác nhau như: Đình, chùa, đền, miếu, cổng làng, lăng mộ, nhà thờ họ, nhà thờ công giáo, văn chỉ. Đa số những di tích này đều mới được tu sửa hoặc khởi dựng vào cuối thời Nguyễn. Trong thời gian tới, cơ quan quản lý di tích sẽ tiến hành khảo sát lập hồ sơ khoa học cho từng di tích này, xác định giá trị của từng di tích để đề nghị Nhà nước và tỉnh Thái Bình xếp hạng, tạo cơ sở pháp lý trong việc bảo vệ, bảo tồn và phát huy các giá trị của di tích. Bên cạnh đó, căn cứ vào số lượng các di tích đã được xếp hạng, cơ quan quản lý di tích đồng thời lập quy hoạch tổng thể hệ thống di tích trên địa bàn tỉnh Thái Bình theo tinh thần của Nghị định 70/NĐ-CP năm 2012. Đây sẽ là cơ sở cho các kế hoạch, dự án bảo quản, tu bổ phục hồi từng di tích, nhằm đáp ứng mục tiêu phát triển bền vững các di sản văn hóa của tỉnh, phục vụ tốt mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, góp phần nâng cao đời sống văn hóa cho cộng đồng cư dân địa phương và khách tham quan du lịch.

Ở góc độ phân loại loại hình, Thái Bình có ba loại hình di tích cơ bản là di tích lịch sử, di tích kiến trúc nghệ thuật và di tích khảo cổ và loại hình nào cũng có những công trình rất giàu giá trị về lịch sử và văn hóa. Có thể kể đến các di tích khảo cổ thuộc vùng đất Ngự Thiên xưa, nay là huyện Hưng Hà, nơi có hành cung Ngự Thiên được xây dựng từ thế kỷ XII, di chỉ của nghề đúc đồng An Lộng (xã Quỳnh Xá, Quỳnh Phụ), di chỉ của thành Kỳ Bố Hải Khẩu (thành phố Thái Bình, thời kỳ Trần Lãm, TK X), lăng Trần Thủ Độ (xã Liên Hiệp, Hưng Hà), lăng Thái Bảo, tướng triều Trần, Đỗ Tử Bình (xã Hồng Việt, Vũ Thư), lăng mộ An Hạ Vương và phu nhân (xã Đông Quang, Đông Hưng), lăng Phạm Huy Đĩnh (xã Chương Dương, Đông Hưng). Đặc biệt, khu phế tích của nhà Trần thuộc địa phận xã Tiến Đức (Hưng Hà) có quy mô rất rộng, tập trung chủ yếu ở làng Tam Đường. Đây là khu lăng tẩm của nhà Trần và hành cung Long Hưng dưới triều Trần. Một số di tích lịch sử nổi bật như khu lưu niệm đồng chí Nguyễn Đức Cảnh tại quê hương Thái Thụy, di tích lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh tại xã Tân Hòa (Vũ Thư), di tích Cơ sở in của Xứ ủy Bắc Kỳ năm 1930 ở xã Đình Phùng,… Những di tích lịch sử này đang phát huy vai trò tích cực trong công tác giáo dục truyền thống cho các thế hệ.

Loại hình di tích kiến trúc nghệ thuật chiếm số lượng nhiều nhất trong hệ thống di tích lịch sử văn hóa ở Thái Bình với 770 ngôi chùa, 666 đình làng, 343 đền, 332 miếu phủ, 295 từ đường và phần còn lại là những Văn chỉ, nhà thờ Công giáo, công trình kiến trúc dân gian khác... Đây là loại hình di tích thu hút đông đảo nhất sự quan tâm thăm viếng của không chỉ cư dân địa phương mà còn của du khách thập phương, đặc biệt vào các kỳ lễ hội.

Không thể không nhắc đến chùa Keo (Thần Quang Tự), tọa lạc tại xã Duy Nhất, huyện Vũ Thư, được xếp hạng cấp Quốc gia đặc biệt năm 2012. Chùa là một trong 10 kiến trúc cổ tiêu biểu và là một trong ba ngôi chùa tiêu biểu của Việt Nam. Diện tích khu chùa hiện nay còn khoảng 38.000m2 (dài 300m, rộng 125m), quan nhiều lần trùng tu, hiện vẫn còn tấm bia đá rất lớn, có khắc năm Chính Hòa thứ 10 (1689). Chùa hiện có 17 tòa với 128 gian. Một điều khá độc đáo, chùa có gác chuông 3 tầng cao 12m, được làm hoàn toàn bằng gỗ lim. Bên trong chùa cón lại hàng nghìn mảng chạm khắc rất độc đáo, có giá trị nghệ thuật cao.

Đình An Cố (xã Thụy An, huyện Thái Thụy) được xây dựng vào thời Lê với 2 tòa, 10 gian, quy mô kiến trúc rất hoành tráng. Tòa tiền tế có 7 gian, rộng 250m2, sức chứa tới hàng nghìn người; tòa hậu cung rộng 3 gian, còn lưu giữ rất nhiều mảng chạm khắc mang tính nghệ thuật cao. Trong các mạng chạm khắc có tới hàng trăm con rồng, con hổ và vô số linh vật khác. Có mảng chạm khắc về khung cảnh lao động sản xuất rất sinh động. Đây là một kiến trúc nghệ thuật đình tiêu biểu nhất ở Thái Bình (5).

Toàn cảnh ngôi đình đá làng Vược, xã An Hiệp, huyện Quỳnh Phụ.

Hệ thống xà, cột trong đình làm bằng đá.

Đình Đá (xã An Hiệp, huyện Quỳnh Phụ) với diện tích 200m2, 2 tòa, 10 gian, được xây dựng hoàn toàn bằng đá. Đình có 5 vì kèo cầu, 20 cột, 14 đầu dư, hệ thống xà liên kết. Các cột hiên bằng đá xẻ vuông (32x32cm), cao 2,65m. Các cột cái tròn bằng đá, đường kính 50cm, đứng trên tảng đá thắt cổ bồng cao 50cm; Trên thân cột chạm rồng leo, đầu rồng nối với các đầu dư, được cách điệu ngậm hạc. Các vì kèo là những tảng đá lớn, kết cấu hình tam giác chạm trổ họa tiết hổ phù, mây cuộn, phượng hàm thư, văn triện kỷ hà. Các xà thượng, xà hạ liên kết với các vì kèo, cột bằng các mộng thắt. Liên kết cột và các chân tảng bằng các ngõng đá. Đặc biệt là cửa võng nối với hậu cung thuộc gian chính tẩm cũng bằng đá và là một tác phẩm điêu khắc tuyệt tác với họa tiết tứ quý, tứ linh sống động như bức tranh vẽ trên giấy.

Đền Đồng Bằng (xã An Lễ, huyện Quỳnh Phụ) là một ngôi đền có quy mô kiến trúc lớn nhất Thái Bình, được xây dựng trên diện tích 6.000m2 với 13 tòa, 66 gian, có hàng trăm mảng chặm khắc nghệ thuật. Các bức cuốn thư, đai tự, cửa võng được chạm khắc rất sinh động và được sơn son, thếp vàng.

Cảnh bên ngoài đền Tiên La .

Đền Tiên La thờ Bát Nạn Đông Nhung Đại tướng quân Vũ Thị Thục.

Đền Tiên La (xã Đoan Hùng, huyện Hưng Hà) tọa lạc trên khu đất rộng 400m2. Ngôi đền có quy mô lớn, đẹp lộng lẫy về cả thế và vóc dáng, bao gồm nhiều công trình như hệ thống cổng đền, tòa tiền tế, tòa trung tế (cột kèo bằng đá) tòa thượng điện và tòa hậu cung. Tòa điện, bái đường của đền được kiến trúc bằng vật liệu gỗ tứ thiết. Nội thất được chạm trổ công phu với các nội dung có tính kinh điển như Long, ly, quy, phượng đan xen với thông, cúc, trúc, mai, theo phong cách kiến trúc thời Nguyễn.

Đền Đồng Xâm (xã Hồng Thái, Kiến Xương) là một quần thể kiến trúc gồm 12 công trình lớn nhỏ với 40 gian được xây dựng trên diện tích khoảng 1.000m2. Đền có nhiều mảng chạm khắc nghệ thuật tinh xảo, điều khác biệt là bức hoành mã trước cửa đền hết sức hoành tráng và sinh động.

Miếu Hai Thôn (xã Hiệp Hòa, huyện Vũ Thư) thờ bà Đỗ Thị Khương là vợ của Lý Bí. Miếu được đại tu vào năm 1680 là một trong các công trình kiến trúc nghệ thuật tiêu biểu nhất ở Thái Bình. Miếu gồm 3 tòa, 11 gian. Trước sân xây cuốn thư cổ, cổng hoành mã. Hiện phía trước của hai tòa đều đánh bạo kép, ngưỡng kép, chấn phong thượng hạ, các mảng cánh gà hồi hiên chạm lõng 3 tầng rồng lửa. Tường sau, hồi tả, hồi hữu đều đắp đố lụa bằng gỗ lim. Các đồ tế khí đời Lê, các cổ khám rất lớn, những cỗ ngai đồ sộ chạm lõng 5 tầng đủ các đề tài trúc long, long cuốn, long ổ… Tất cả đều sơn son, thếp vàng. Đặc biệt, miếu còn lưu giữ bức tranh cổ được vẽ vào nửa cuối thế kỷ XVII, cao 1,6m, rộng 2,2m, miêu tả vua Tiền Lý Nam Đế và Hoàng hậu một cách sinh động.

Thực trạng của các di tích ở tỉnh Thái Bình có thể phân chia thành các nhóm. Nhóm một là các di tích còn tốt. Hầu hết các di tích còn tốt đều là những di tích có niên đại muộn, chủ yếu vào thời Nguyễn và trên thực tế tình trạng của các di tích này đều nằm trong chế độ bảo quản, chưa phải áp dụng kỹ thuật tu bổ, thay thế. Những di tích thuộc nhóm này về cơ bản giữ nguyên được các yếu tố gốc từ khi xây dựng cho tới nay. Cá biệt có một vài di tích đã xuất hiện sự xâm hại của rêu, nấm mốc, mối mọt… Vì vậy, trên thực tế, loại di tích thuộc nhóm một chỉ cần áp dụng các chế độ bảo quản thường xuyên như chống mối, chống mọt, diệt rêu và nấm mốc…. Nhóm hai gồm các di tích đã có hiện tượng xuống cấp, đã được lập dự án tu bổ, tôn tạo giai đoạn 2010 – 2015. Nhóm ba gồm các di tích xuống cấp trầm trọng hoặc trong tình trạng là phế tích. Đây là những di tích cần được ưu tiên về kinh phí để tu bổ, chống xuống cấp khẩn cấp nhằm tránh nguy cơ bị mất vĩnh viễn trước tác động xấu của các yếu tố khách quan.

Việc nghiên cứu giá trị của hệ thống di tích lịch sử văn hóa của tỉnh Thái Bình đồng thời đánh giá tốt thực trạng và tình trạng kỹ thuật tại các di tích sẽ góp phần giúp công tác quản lý di tích lịch sử văn hóa đạt hiệu quả hơn. Từ đó, thực hiện tốt công tác bảo tồn và phát huy giá trị của hệ thống di tích lịch sử văn hóa ở địa phương, phục vụ cho sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội.

Bình luận (1)
Thái Bình
23 tháng 11 2017 lúc 20:14

Trong suốt chiều dài lịch sử, cư dân Thái Bình phải thường xuyên chống chọi với thiên tai, địch họa. Hoàn cảnh ấy góp phần hình thành, hun đúc nên truyền thống bất khuất, cần cù, thông minh, sáng tạo của người dân Thái Bình trong chiến đấu, lao động, sản xuất. Truyền thống hiếu học, đỗ đạt khoa bảng cũng là nét nổi bật trong văn hóa Thái Bình. Chính những yếu tố đó đã tạo cho Thái Bình có một kho tàng di sản văn hóa vô cùng phong phú, đa dạng và giá trị.

Chùa Keo, xã Duy Nhất, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình.

Một trong những thành tố trong kho tàng di sản văn hóa đó là các di tích lịch sử văn hóa, những bằng chứng xác thực, cụ thể về đặc điểm lịch sử, văn hóa của một dân tộc. Ở đó chứa đựng tất cả những gì thuộc về truyền thống tốt đẹp, kỹ năng, kỹ xảo và trí tuệ của con người. Các di tích lịch sử văn hóa chính là những thông điệp của quá khứ được thế hệ trước trao truyền cho thế hệ sau, ở đó người ta đã cảm nhận được quá khứ, và từ đó tìm đến với truyền thống lịch sử, những giá trị đạo đức, thẩm mỹ, tín ngưỡng, tâm linh. Trên cơ sở truyền thống lịch sử, các thế hệ đi sau tiếp nối và sáng tạo những giá trị văn hóa mới.

Tính đến năm 2015, toàn tỉnh Thái Bình có tổng số 2.539 di tích, đã và chưa được xếp hạng, trong đó, đậm đặc nhất là ở các huyện: Hưng Hà (667 di tích), Thái Thụy (447 di tích), Quỳnh Phụ (351 di tích), Vũ Thư (298 di tích),... Thống kê cho thấy, Thái Bình là tỉnh có số lượng di tích khá lớn nhưng mật độ di tích phân bố ở các huyện không đồng đều. Di tích tập trung dày đặc ở ba huyện là Hưng Hà, Thái Thụy và Quỳnh Phụ với 1.495 di tích (chiếm trên 50% tổng số di tích toàn tỉnh). Trong khi đó, thành phố Thái Bình chỉ có 85 di tích.

Tỉnh có 2 di tích được xếp hạng cấp Quốc gia đặc biệt, là di tích kiến trúc nghệ thuật Chùa Keo (huyện Vũ Thư) và di tích lịch sử Khu lăng mộ và đền thờ các vị vua triều Trần (Hưng Hà). 151 di tích được xếp hạng cấp quốc gia, trong đó chủ yếu là các di tích thuộc loại hình kiến trúc nghệ thuật, tập trung nhiều nhất ở các huyện Hưng Hà (29 di tích), Thái Thụy (29 di tích) và huyện Đông Hưng (23 di tích). Nghiên cứu kết quả xếp hạng di tích cho thấy Thái Bình có nhiều di tích kiến trúc nghệ thuật vào thời Lê, sau đó được trùng tu và xây dựng lại vào thời Nguyễn. Vì vậy, trong quyết định xếp hạng, các di tích này được xác định có niên đại vào thời Lê – Nguyễn. Đó là những công trình kiến trúc nghệ thuật có giá trị tiêu biểu, cần được quan tâm trong quá trình bảo tồn và phát huy giá trị của các di tích cấp quốc gia.

Thái Bình hiện có 595 di tích đã được xếp hạng cấp tỉnh, trong đó, huyện Hưng Hà có 109 di tích, Đông Hưng có 91 di tích, Quỳnh Phụ có 92 di tích, Thái Thụy có 88 di tích, Tiền Hải có 68 di tích, Kiến Xương có 57 di tích, Vũ Thư có 62 di tích và thành phố Thái Bình có 28 di tích.

Theo tư liệu thống kê của Ban Quản lý di tích tỉnh Thái Bình, hiện nay, toàn tỉnh còn 1.791 di tích chưa được xếp hạng. Trong số đó có nhiều di tích ở các loại hình khác nhau như: Đình, chùa, đền, miếu, cổng làng, lăng mộ, nhà thờ họ, nhà thờ công giáo, văn chỉ. Đa số những di tích này đều mới được tu sửa hoặc khởi dựng vào cuối thời Nguyễn. Trong thời gian tới, cơ quan quản lý di tích sẽ tiến hành khảo sát lập hồ sơ khoa học cho từng di tích này, xác định giá trị của từng di tích để đề nghị Nhà nước và tỉnh Thái Bình xếp hạng, tạo cơ sở pháp lý trong việc bảo vệ, bảo tồn và phát huy các giá trị của di tích. Bên cạnh đó, căn cứ vào số lượng các di tích đã được xếp hạng, cơ quan quản lý di tích đồng thời lập quy hoạch tổng thể hệ thống di tích trên địa bàn tỉnh Thái Bình theo tinh thần của Nghị định 70/NĐ-CP năm 2012. Đây sẽ là cơ sở cho các kế hoạch, dự án bảo quản, tu bổ phục hồi từng di tích, nhằm đáp ứng mục tiêu phát triển bền vững các di sản văn hóa của tỉnh, phục vụ tốt mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, góp phần nâng cao đời sống văn hóa cho cộng đồng cư dân địa phương và khách tham quan du lịch.

Ở góc độ phân loại loại hình, Thái Bình có ba loại hình di tích cơ bản là di tích lịch sử, di tích kiến trúc nghệ thuật và di tích khảo cổ và loại hình nào cũng có những công trình rất giàu giá trị về lịch sử và văn hóa. Có thể kể đến các di tích khảo cổ thuộc vùng đất Ngự Thiên xưa, nay là huyện Hưng Hà, nơi có hành cung Ngự Thiên được xây dựng từ thế kỷ XII, di chỉ của nghề đúc đồng An Lộng (xã Quỳnh Xá, Quỳnh Phụ), di chỉ của thành Kỳ Bố Hải Khẩu (thành phố Thái Bình, thời kỳ Trần Lãm, TK X), lăng Trần Thủ Độ (xã Liên Hiệp, Hưng Hà), lăng Thái Bảo, tướng triều Trần, Đỗ Tử Bình (xã Hồng Việt, Vũ Thư), lăng mộ An Hạ Vương và phu nhân (xã Đông Quang, Đông Hưng), lăng Phạm Huy Đĩnh (xã Chương Dương, Đông Hưng). Đặc biệt, khu phế tích của nhà Trần thuộc địa phận xã Tiến Đức (Hưng Hà) có quy mô rất rộng, tập trung chủ yếu ở làng Tam Đường. Đây là khu lăng tẩm của nhà Trần và hành cung Long Hưng dưới triều Trần. Một số di tích lịch sử nổi bật như khu lưu niệm đồng chí Nguyễn Đức Cảnh tại quê hương Thái Thụy, di tích lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh tại xã Tân Hòa (Vũ Thư), di tích Cơ sở in của Xứ ủy Bắc Kỳ năm 1930 ở xã Đình Phùng,… Những di tích lịch sử này đang phát huy vai trò tích cực trong công tác giáo dục truyền thống cho các thế hệ.

Loại hình di tích kiến trúc nghệ thuật chiếm số lượng nhiều nhất trong hệ thống di tích lịch sử văn hóa ở Thái Bình với 770 ngôi chùa, 666 đình làng, 343 đền, 332 miếu phủ, 295 từ đường và phần còn lại là những Văn chỉ, nhà thờ Công giáo, công trình kiến trúc dân gian khác... Đây là loại hình di tích thu hút đông đảo nhất sự quan tâm thăm viếng của không chỉ cư dân địa phương mà còn của du khách thập phương, đặc biệt vào các kỳ lễ hội.

Không thể không nhắc đến chùa Keo (Thần Quang Tự), tọa lạc tại xã Duy Nhất, huyện Vũ Thư, được xếp hạng cấp Quốc gia đặc biệt năm 2012. Chùa là một trong 10 kiến trúc cổ tiêu biểu và là một trong ba ngôi chùa tiêu biểu của Việt Nam. Diện tích khu chùa hiện nay còn khoảng 38.000m2 (dài 300m, rộng 125m), quan nhiều lần trùng tu, hiện vẫn còn tấm bia đá rất lớn, có khắc năm Chính Hòa thứ 10 (1689). Chùa hiện có 17 tòa với 128 gian. Một điều khá độc đáo, chùa có gác chuông 3 tầng cao 12m, được làm hoàn toàn bằng gỗ lim. Bên trong chùa cón lại hàng nghìn mảng chạm khắc rất độc đáo, có giá trị nghệ thuật cao.

Đình An Cố (xã Thụy An, huyện Thái Thụy) được xây dựng vào thời Lê với 2 tòa, 10 gian, quy mô kiến trúc rất hoành tráng. Tòa tiền tế có 7 gian, rộng 250m2, sức chứa tới hàng nghìn người; tòa hậu cung rộng 3 gian, còn lưu giữ rất nhiều mảng chạm khắc mang tính nghệ thuật cao. Trong các mạng chạm khắc có tới hàng trăm con rồng, con hổ và vô số linh vật khác. Có mảng chạm khắc về khung cảnh lao động sản xuất rất sinh động. Đây là một kiến trúc nghệ thuật đình tiêu biểu nhất ở Thái Bình (5).

Toàn cảnh ngôi đình đá làng Vược, xã An Hiệp, huyện Quỳnh Phụ.

Hệ thống xà, cột trong đình làm bằng đá.

Đình Đá (xã An Hiệp, huyện Quỳnh Phụ) với diện tích 200m2, 2 tòa, 10 gian, được xây dựng hoàn toàn bằng đá. Đình có 5 vì kèo cầu, 20 cột, 14 đầu dư, hệ thống xà liên kết. Các cột hiên bằng đá xẻ vuông (32x32cm), cao 2,65m. Các cột cái tròn bằng đá, đường kính 50cm, đứng trên tảng đá thắt cổ bồng cao 50cm; Trên thân cột chạm rồng leo, đầu rồng nối với các đầu dư, được cách điệu ngậm hạc. Các vì kèo là những tảng đá lớn, kết cấu hình tam giác chạm trổ họa tiết hổ phù, mây cuộn, phượng hàm thư, văn triện kỷ hà. Các xà thượng, xà hạ liên kết với các vì kèo, cột bằng các mộng thắt. Liên kết cột và các chân tảng bằng các ngõng đá. Đặc biệt là cửa võng nối với hậu cung thuộc gian chính tẩm cũng bằng đá và là một tác phẩm điêu khắc tuyệt tác với họa tiết tứ quý, tứ linh sống động như bức tranh vẽ trên giấy.

Đền Đồng Bằng (xã An Lễ, huyện Quỳnh Phụ) là một ngôi đền có quy mô kiến trúc lớn nhất Thái Bình, được xây dựng trên diện tích 6.000m2 với 13 tòa, 66 gian, có hàng trăm mảng chặm khắc nghệ thuật. Các bức cuốn thư, đai tự, cửa võng được chạm khắc rất sinh động và được sơn son, thếp vàng.

Cảnh bên ngoài đền Tiên La .

Đền Tiên La thờ Bát Nạn Đông Nhung Đại tướng quân Vũ Thị Thục.

Đền Tiên La (xã Đoan Hùng, huyện Hưng Hà) tọa lạc trên khu đất rộng 400m2. Ngôi đền có quy mô lớn, đẹp lộng lẫy về cả thế và vóc dáng, bao gồm nhiều công trình như hệ thống cổng đền, tòa tiền tế, tòa trung tế (cột kèo bằng đá) tòa thượng điện và tòa hậu cung. Tòa điện, bái đường của đền được kiến trúc bằng vật liệu gỗ tứ thiết. Nội thất được chạm trổ công phu với các nội dung có tính kinh điển như Long, ly, quy, phượng đan xen với thông, cúc, trúc, mai, theo phong cách kiến trúc thời Nguyễn.

Đền Đồng Xâm (xã Hồng Thái, Kiến Xương) là một quần thể kiến trúc gồm 12 công trình lớn nhỏ với 40 gian được xây dựng trên diện tích khoảng 1.000m2. Đền có nhiều mảng chạm khắc nghệ thuật tinh xảo, điều khác biệt là bức hoành mã trước cửa đền hết sức hoành tráng và sinh động.

Miếu Hai Thôn (xã Hiệp Hòa, huyện Vũ Thư) thờ bà Đỗ Thị Khương là vợ của Lý Bí. Miếu được đại tu vào năm 1680 là một trong các công trình kiến trúc nghệ thuật tiêu biểu nhất ở Thái Bình. Miếu gồm 3 tòa, 11 gian. Trước sân xây cuốn thư cổ, cổng hoành mã. Hiện phía trước của hai tòa đều đánh bạo kép, ngưỡng kép, chấn phong thượng hạ, các mảng cánh gà hồi hiên chạm lõng 3 tầng rồng lửa. Tường sau, hồi tả, hồi hữu đều đắp đố lụa bằng gỗ lim. Các đồ tế khí đời Lê, các cổ khám rất lớn, những cỗ ngai đồ sộ chạm lõng 5 tầng đủ các đề tài trúc long, long cuốn, long ổ… Tất cả đều sơn son, thếp vàng. Đặc biệt, miếu còn lưu giữ bức tranh cổ được vẽ vào nửa cuối thế kỷ XVII, cao 1,6m, rộng 2,2m, miêu tả vua Tiền Lý Nam Đế và Hoàng hậu một cách sinh động.

Thực trạng của các di tích ở tỉnh Thái Bình có thể phân chia thành các nhóm. Nhóm một là các di tích còn tốt. Hầu hết các di tích còn tốt đều là những di tích có niên đại muộn, chủ yếu vào thời Nguyễn và trên thực tế tình trạng của các di tích này đều nằm trong chế độ bảo quản, chưa phải áp dụng kỹ thuật tu bổ, thay thế. Những di tích thuộc nhóm này về cơ bản giữ nguyên được các yếu tố gốc từ khi xây dựng cho tới nay. Cá biệt có một vài di tích đã xuất hiện sự xâm hại của rêu, nấm mốc, mối mọt… Vì vậy, trên thực tế, loại di tích thuộc nhóm một chỉ cần áp dụng các chế độ bảo quản thường xuyên như chống mối, chống mọt, diệt rêu và nấm mốc…. Nhóm hai gồm các di tích đã có hiện tượng xuống cấp, đã được lập dự án tu bổ, tôn tạo giai đoạn 2010 – 2015. Nhóm ba gồm các di tích xuống cấp trầm trọng hoặc trong tình trạng là phế tích. Đây là những di tích cần được ưu tiên về kinh phí để tu bổ, chống xuống cấp khẩn cấp nhằm tránh nguy cơ bị mất vĩnh viễn trước tác động xấu của các yếu tố khách quan.

Việc nghiên cứu giá trị của hệ thống di tích lịch sử văn hóa của tỉnh Thái Bình đồng thời đánh giá tốt thực trạng và tình trạng kỹ thuật tại các di tích sẽ góp phần giúp công tác quản lý di tích lịch sử văn hóa đạt hiệu quả hơn. Từ đó, thực hiện tốt công tác bảo tồn và phát huy giá trị của hệ thống di tích lịch sử văn hóa ở địa phương, phục vụ cho sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội.

Bình luận (0)
Trình Khánh Vân
Xem chi tiết
ngan ngannguyen
12 tháng 11 2017 lúc 21:48

Ha ha ha....Tào lao quá đi bạn ạ!Phải đưa ra câu hỏi ,toàn đăng mấy thứ ko liên quan đến bài học.

Làm ơn đừng đăng nữa,ko giúp j đến học hành thì đững đăng

Bình luận (7)
Nho Ngọc Khánh Linh
26 tháng 11 2017 lúc 18:52

nhìn mấy cái này thì mai mốt sẽ bị nghện đấy các bạn ạ ! Những người nào mà coi mấy cái thứ bậy bạ thì mới đăng mấy cái lung tung này đấy các bạn ạhihihiuhiuhuhuoeoho

Bình luận (14)
nami
12 tháng 11 2017 lúc 20:36

đéo có câu hỏi mà bắt trả lời

ngu .......NGU HIẾT THUỐC CHỮA ucche

Bình luận (1)
Nhi Bảo
Xem chi tiết
Thanh Tâm Đàm
31 tháng 10 2017 lúc 11:43

là 1 nguyên tắc cơ bản quan trọng trong học tập và nghiên cứu lịch sử

Dựa vào thời gian mọc,lặn,di chuyển của mặt trăng. mặt trời

Chia thời gian theo ngày,tháng,năm,giờ,phút,giây

Bình luận (3)
Lường thị thu hoài
4 tháng 11 2017 lúc 19:06

- Nguời phương Tây họ biết được sự chuyển động của mtroi và mtrang . Từ những hiểu biết đó họ sáng tạo ra lịch 1 năm có365 ngày chia thành 12 tháng , mỗi tháng có 29 đến 30 ngày . Đó là âm lịch .

- Nguời phương Tây họ họ biết làm lịch dựa theo di chuyển của trái đất quanh mtroi . Họ tính được một năm có 365 ngày 6h , chia thành 12 tháng . Đó là dương lịch .

Bình luận (2)
Vũ Thị Kim Anh
5 tháng 12 2017 lúc 13:46

- Muốn hiểu và dựng lại lịch sử thì phải xắp xếp theo trình tự thời gian .

- Là nguyên tắc cơ bản để tìm hiểu và học lịch sử .

- Tính được thời gian lặn , mọc của Mặt Trời , Mặt Trăng và làm ra lịch

Bình luận (0)
nguyen lykio
Xem chi tiết
Chippy Linh
30 tháng 9 2017 lúc 21:32


+/ Về chữ viết :
Phát minh ra hệ thống chữ cái A, B, C,... lúc đầu có 20 chữ, sau thêm 6 chữ nữa để trở thành hệ thống chữ cái hoàn chỉnh như ngày nay. Đây là cống hiến lớn lao của cư dân Địa Trung Hải cho nền văn minh nhân loại.
b/ Sự ra đời của khoa học
+/ Toán học : Với người Hy Lạp, toán học đã vượt lên trên sự ghi chép và giải các bài toán riêng biệt. Những nhà toán học mà tên tuổi vẫn còn lại đến nay đã để lại những định lí, định đề có giá trị khái quát cao: Định lí nổi tiếng về hình học của Ta-lét; những cống hiến của trường phái Pitago về bảng nhân, hệ thống số thập phân và định lí về các cạnh của hình tam giác vuông cùng với các định đề bất hủ về đường song song của Ơclit…nhiều thế kỉ sau vẫn là thành phần căn bản của toán học.
+/ Về Toán và Vật lí học : Nhà Toán và Vật lí học nổi tiếng là Ácimet với công thức tính diện tích và thể tích của hình trụ và hình cầu, nguyên lí về vật nổi và hàng loạt phát minh khoa học của ông.
+/ Về Sử học : Sử học cũng vượt giới hạn của sự ghi chép tản mạn, thuần thuý “biên niên” của thời trước. Các sử gia cổ đại Hy Lạp và Rô-ma đã biết tập hợp các tài liệu, phân tích và trình bày có hệ thống lịch sử một nước hay một cuộc chiến tranh. Hêrôđôt viết ‘Lịch sử”, Tusidi viết “Cuộc chiến tranh Pêlêpôn”, Tasit viết “Lịch sử Rô-ma”, phong tục người Giécman…
+/ Về địa lí : Strabôn của Hy Lạp cổ đại cũng đã đi và khảo sát rất nhiều vùng quanh Địa Trung Hải, để lại nhiều tài liệu ghi chép và khảo cứu về địa lí cũng có rất giá trị.
+/ Về văn chương : Vượt qua văn học dân gian thời cổ đại phương Đông, người hy Lạp sau các anh hùng ca nổi tiếng của Hômermơ đã có những nhà biên kịch tài danh như : Etsin, Sôphốclơ, Ởipit. Người Rô-ma cũng có những nhà văn hoá lớn như : Lucrexơ, Viếcgin… Các tác phẩm này đã đạt tới trinh độ hoàn thiện của ngôn ngữ cổ đại, mang tính nhân đạo sâu sắc, đề cao cái đẹp, cái thiện, vì lợi ích con người.
+/ Về nghệ thuật : Có nhiều tượng, đền đài như ; tượng Ngưofi lực sĩ ném đĩa, tượng thần Vệ nữ Milô – đẹp, hiện thực, sinh động, thanh khiết. Các công trình kiến trúc cũng đạt tơi trình độ tuyệt mĩ. Đền Pac-tê-nông tươi mát, thanh thoát làm say mê lòng người.

Bình luận (0)
Giang
30 tháng 9 2017 lúc 21:34

Trả lời:

Người Hi Lạp và Rô-ma đã có những thành tựu văn hóa: thiên văn, lịch, chữ viết; các thành tựu đặt nền móng cho các ngành khoa học cơ bản sau này, văn học, nghệ thuật,...

Chúc bạn học tốt!

Bình luận (0)
Phạm Thị Thạch Thảo
1 tháng 10 2017 lúc 17:06

+ Chữ viết: Hệ chữ a, b, c…

+ Các ngành khoa học cơ bản ( toán, lí, hóa, sinh… với nhiều nhà khoa học lớn như toán học có Ta – lét, Pi – ta – go, vật lí của Ác – si – mét, triết học có Pla – tôn , A –ri – nốt…

Bình luận (0)
Võ Thanh Nhung
Xem chi tiết
ngan ngannguyen
14 tháng 11 2017 lúc 10:20

hình như mk chưa hc bài bạn đến chơi nhà thì phải.Ở trong sách nào thế nào bạn?humlolang

Bình luận (1)
Ngọc Ánh Ngyễn
Xem chi tiết
Matsumi
29 tháng 10 2017 lúc 22:53

Con người(nếu tim ko đập thì chết)

Bình luận (1)
Yumi Đặng
30 tháng 10 2017 lúc 6:21

con tim

Bình luận (1)
đỗ lê nhật hà
7 tháng 11 2017 lúc 19:16

con tim hehe

Bình luận (0)
Trương Quang Huy Hoàng
4 tháng 12 2016 lúc 16:30

Ngô quyền lên ngôi vua, đóng đô ở cổ loa

Bình luận (0)
Nguyen Thi Mai
4 tháng 12 2016 lúc 16:28

Năm 939 có sự kiện : Thành lập nhà Ngô

Bình luận (0)
Phạm Thị Vinh
28 tháng 10 2017 lúc 14:37

Ngô Quyền lên ngôi vua và nhà Ngô thành lập

Bình luận (0)
Thien Vu Van
Xem chi tiết
chuongthanhpham
21 tháng 10 2017 lúc 22:23

- Năm đầu tiên của công nguyên là năm 0

- Được lấy từ năm chúa Rê - su ra đời

Bình luận (0)
Hoàng Thị Thùy Linh
25 tháng 10 2017 lúc 21:03

năm đầu của công nguyên là năm chúa Rê-su ra đời.

Bình luận (0)
Ngọc Ánh Ngyễn
29 tháng 10 2017 lúc 22:51

chúa Rê-su ra đời

Bình luận (0)
Phạm Quang Thanh
Xem chi tiết
chuongthanhpham
21 tháng 10 2017 lúc 21:18

một số bài cho bạn tham khảo

Em hãy kể về em:

Lớp em học là lớp 6A2, trong lớp có hai mươi lăm thành viên, trong đó chỉ có mười một bạn là nam, còn lại đều là nữ. Tuy có sự chênh lệch về tỉ lệ nam nữ nhưng điều đó không hề ảnh hưởng đến hoạt động học tập cũng như quan hệ bạn bè giữa chúng em. Lớp chúng em là một trong lớp đoàn kết nhất trong trường, sự đoàn kết ấy thể hiện trong quan hệ tốt đẹp giữa học sinh với giáo viên, giữa các thành viên trong lớp với nhau. Vì vậy mà dù là lớp nhỏ nhất trường nhưng tập thể lớp 6A1 của chúng em luôn xếp thứ hạng cao trong danh sách những lớp có thành tích học tập, thi đua xuất sắc nhất trường.

Các thành viên trong lớp luôn có ý thức giúp đỡ lẫn nhau trong học tập, đoàn kết trong cuộc sống. Em rất yêu lớp của mình, đối với em, thầy cô giáo là những người cha mẹ thứ hai, các thành viên là những anh chị em ruột thịt đầy thân thiết của mình. Sau đây em sẽ tự giới thiệu về những đặc điểm của bản thân mình. Em là con út trong một gia đình hai chị em gái, vì là con út trong nhà nên em được bố mẹ, ông bà hết mực yêu quý, quan tâm, chị của em tuy chỉ hơn em hai tuổi nhưng luôn nhường nhịn em mọi thứ, dành cho em phần nhiều và những thứ tốt. Có thể nói em rất may mắn khi có một gia đình hạnh phúc, các thành viên yêu thương, đùm bọc lẫn nhau.

Em hãy kể lại một câu truyện truyền thuyết

Thuở xưa ở vùng đất Lạc Việt có vị thần tên là Lạc Long Quân, con trai của thần Long Nữ sống ở dưới biển Đông. Thần hình rồng, sức khỏe phi thường và có nhiều phép lạ. Thỉnh thoảng thần lên sống trên cạn, giúp dân diệt trừ các loài yêu quái như Ngư Tinh, Hồ tinh, Mộc Tinh. thần còn dạy dân cách trồng trọt và sinh sống.


Âu cơ là một tiên nữ dòng dõi Thần Nông ở vùng núi cao phương Bắc. Nàng thích ngao du đây đó, những nơi có phong cảnh đẹp. Bên trai tài, bên gái sắc, họ yêu nhau rồi kết thành vợ chồng.


Ít lâu sau, Âu Cơ sinh ra cái bọc trăm trứng, nở ra một trăm người con khôi ngô tuấn tú lạ thường. Chẳng cồn bú mớm mà đàn con lớn nhanh như thổi, khỏe mạnh như thần.


Một hôm, nhớ biển cả và cảm thấy mình không thể sống lâu trên cạn được, Lạc Long Quân đành từ biệt Âu Cơ để trở về chốn thủy cung. Âu Cơ một mình nuôi con.Ngày lại ngày qua, nàng sốt ruột trông ngóng chồng với tâm trạng buồn tủi. Cuối cùng, nàng gọi chồng lên mà than thở :

-Sao chàng nỡ bỏ thiếp mà đi, không cùng thiếp nuôi các con?!
Lạc Long Quân ân cần giải thích:
-Ta vốn nòi rồng ở miền nước thẳm, nàng là dòng tiên ở chốn non cao.Kẻ trên cạn người dưới nước, tính tình tập quán khác nhau, khó lòng mà ăn ở cùng nhau một nơi lâu dài được. Nay ta đưa năm mươi con xuống biển, nàng đưa năm mươi con lên núi, chia nhau cai quản các phương. Kẻ miền núi, người miền biển, khi có việc gì khó khăn thì giúp đỡ nhau, đừng quên lời hẹn.
Âu Cơ nghe theo đưa năm mươi người con lên đất Phong Châu. Người con trưởng được tôn làm vua, lấy hiệu là Hùng Vương, lập ra nước Văn Lang, đóng đo ở Phong Châu (vùng Bạc Hạc, Lâm Thao, Phú Thọ ngày nay). Triều đình có quan văn, quan võ (Lạc tướng, Lạc hầu). Con trai của vua gọi là lang, con gái vua gọi là mị nương. Vua cha chết, con trai trưởng nối ngôi. Mười tám đời vua kế tiếp nhau đều lấy hiệu Hùng Vương.


Từ sự tích này mà dân tộc Việt Nam thường nhắc đến nguồn gốc cao quý của mình là con Rồng cháu Tiên. Tất cả các dân tộc sống trên đất nước Việt Nam đều là anh em cùng chung một bọc sinh ra (đồng bào). Các dân tộc đoàn kết, thương yêu, giúp đỡ lẫn nhau trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước.

Em hãy kể lại việc tốt của em:

Hôm đó, cô trả vở Toán cho cả lớp. Đó là môn yêu thích nhất của Linh. Nhưng không hiểu sao hôm nay vẻ mặt của Linh rất lo lắng, và tôi còn thấy Linh cứ quay bên này, quay bên kia mãi.

Cô vừa trả vở xong cho các bạn thì đến giờ ra chơi. Tôi liền đến bên Linh. Linh nó: Hôm nay, bố mẹ tớ đi làm sớm, tớ không kịp xin mẹ 9.000đ để mua bút Nét hoa viết vào vở Toán. Linh sực nhớ ra và reo lên, A! Đúng rồi! Cậu có hai cái bút Nét Hoa, cậu có thể cho tớ mượn một chiếc được không? Tôi đứng ngẫm nghĩ một lúc rồi tự đặt câu hỏi cho chính mình: Có nên cho Linh mượn bút không nhỉ? Tôi hơi băn khoăn. Tiếng trống đã vang lên. Tôi liền về chỗ của mình. Cả lớp ngồi vào chỗ hát xong và Linh cắm cúi viết bài ngay để khỏi trễ giờ. Linh thấy thế nài nỉ tôi cho mượn bút. Cuối cùng tôi cũng quyết định được và gọi nhỏ: Linh ơi! Tớ cho cậu mượn bút này. Chiếc bút đó do mẹ tặng tôi nhân ngày sinh nhật. Màu mực của chiếc bút rất đẹp. Linh nhận được, vẻ mặt phấn khởi lắm. Mỗi khi viết xong mấy chữ, tôi lại ngẩng lên và cảm thấy mực cứ vơi dần đi theo dòng chữ, con số ngay ngắn, thẳng hàng nằm trên trang giấy của bạn. Hết giờ Toán, Linh trả cho tôi chiếc bút và nói: Cảm ơn cậu vì đã cho tớ mượn chiếc bút nhé! Hôm sau, cô trả vở Toán, cả tôi và Linh đều được điểm 10. Tôi mừng lắm vì đã làm được một việc giúp bạn.

Khi về đến nhà tôi kể lại cho mẹ nghe. Mẹ nói: Con hãy cố gắng giúp bạn nhiều hơn khi gặp khó khăn nhé! Tôi như thấm thía câu nói đấy của mẹ và tôi không bao giờ quên được câu chuyện xảy ra ngày hôm đó.

nhớ tick cho mình nhe !

Bình luận (0)