Cuộc đời xô đẩy khiến người cha hết mực yêu thương con không cách nào nhìn thấy con lần cuối đã phải rời xa cuộc sống này. Tình yêu con của lão Hạc thật đặc biệt.
Khi một tác phẩm văn học khép lại, không có nghĩa là nó đã kết thúc mà có lẽ nó vẫn tiếp tục sống trong trái tim độc giả với những hình tượng mà tác giả xây dựng. Một trong những tác phẩm có sức sống mãnh liệt như thế là “Lão Hạc” của nhà văn Nam Cao. Dưới ngòi bút của nhà văn hiện thực nhân đạo sâu sắc, nhân vật Lão Hạc đã thực sự gây ấn tượng với người đọc bởi vẻ đẹp nhân cách và cuộc đời quá đỗi đớn đau.
Lão Hạc là một lão nông nghèo nhưng có nhiều phẩm chất tốt đẹp, đáng quý. Nhân vật Lão Hạc là nhân vật điển hình, đại diện cho mỗi tầng lớp người nông dân dù bị đẩy vào hoàn cảnh khó khăn, nhiều bi kịch nhưng vẫn giữ vẻ đẹp tâm hồn trong sáng.
Cuộc đời lão Hạc là một chuỗi dài bi thảm. Vợ lão mất sớm, một mình lão gà trống nuôi con. Đến tuổi anh con trai lấy vợ thì nhà lão nghèo quá, nhà gái lại thách cao, nên anh con trai không lấy được vợ, phẫn chí bỏ đi đồn điền cao su. Ngày này qua ngày khác, lão mòn mỏi mong con trở về trong cô độc khi không có ai chăm sóc, chỉ có con chó Vàng - kỉ vật của con bầu bạn cùng. Lão sống, trong cái đói nghèo và đơn độc. Đói, nghèo, lão quyết giữ mảnh vườn cho con, nhưng không thoát khỏi bi kịch cuộc đời. Cái đói nghèo khiến lão phải đớn đau bán đi người bạn duy nhất của lão, chỗ dựa cuối cùng của lão – cậu Vàng. Đứng trước sự xô đẩy của cuộc đời và con đường tha hóa, để giữ được tấm lòng thanh sạch của mình, lão phải ăn bả chó tự tử, chết đau đớn, xót xa. Cuộc đời của lão Hạc là một cuộc đời đơn độc, quay quắt trong cái đói nghèo, bị cái đói nghèo đày đọa. Nam Cao đã thông qua cuộc đời nhiều bi kịch đó của lão Hạc để tố cáo xã hội thực dân nửa phong kiến, dồn người nông dân tới bước đường cùng.
Trong hoàn cảnh khó khăn của cuộc sống, nhân cách đẹp đẽ của lão Hạc vô cùng nổi bật. Trước tiên là tấm lòng vị tha, nhân hậu. Với cậu Vàng – kỉ vật của con trai lão, lão yêu quí nó như “một bà mẹ hiếm hoi yêu quý đứa con cầu tự”. Lão cưng nựng, vỗ về, vuốt ve nó; cho nó ăn cơm như nhà giàu ăn cơm bát; lão ăn gì cũng không quên phần nó, gắp cho nó một miếng, lão ăn bao nhiêu, nó cũng ăn như thế, thậm chí có phần hơn lão… Lão cũng coi nó như một người bạn, ngày ngày lão tâm sự, trò chuyện với nó như thể nó cũng là một con người.
Với người con trai đã bỏ đi đồn điền cao su, lão yêu thương rất rất nhiều. Chỉ vì nhà nghèo, không cưới được vợ cho con, làm con uất chí, rời quê hương đi đồn điền mà lão tự dằn vặt, ân hận mãi. Lúc con đòi bán vườn cưới vợ, lão không cho vì muốn giữ mảnh vườn cho con, nghĩ nếu cưới vợ mà bán thì về rồi sẽ sinh sống nơi đâu? Nhưng con trai lão không hiểu cho lão. Anh ta bỏ đi, để lại lão ở nhà vò võ chờ con. Lão nghĩ tốt, lo cho tương lai con, nhưng khi con trai bỏ đi, lão lại tự dằn vặt mình, đày đọa mình. Những câu nói lão nói với cậu Vàng chất chưa biết bao nhiêu tình cảm nhớ thương cho con. Lão nói với cậu Vàng nhưng lại giống như nói với con mình. Lão yêu thương con vô bờ bến, làm việc gì, suy nghĩ gì cũng hướng về con trai. Tiền bòn vườn lão để dành cho con, nhẩm tính sẽ có gần trăm đồng bạc, thêm vào cho con cưới vợ và làm kế sinh nhai.
Thế nhưng, trời bắt tội, lão Hạc ốm. Cơn ốm kéo dài buộc lão phải tiêu đến số tiền đã dành dụm đó. Lão đã đau lòng biết bao khi phải dùng vào tiền cho con trai. Không những thế, vừa khỏi ốm, lão đã vội gửi ông giáo mảnh vườn cho con và tiền dành dụm. Thậm chí, lựa chọn cuối cùng của lão, cái chết của lão cũng là vì con. Lão chết không chỉ bởi muốn giữ nhân cách trong sạch mà còn muốn mở ra đường sống cho con lão bởi lão cho rằng sống ngày nào là ăn vào tiền, vào đường sống của con ngày ấy.
Cha mẹ vì con có thể chịu đựng, hi sinh tất cả, nhưng lựa chọn hi sinh cả tính mạng vì con như lão Hạc thực sự là chuyện đặc biệt xót xa. Cuộc đời xô đấy khiến người cha hết mực yêu thương con không cách nào nhìn thấy con lần cuối đã phải rời xa cuộc sống này. Tình yêu con của lão Hạc thật đặc biệt. Nó lặng lẽ trong tâm tưởng nhưng quyết liệt trong hành động. Tình yêu thương ấy quả thực vô cùng cảm động.
Là người cha hết mực yêu thương con, Lão Hạc còn mang trong mình tấm lòng tự trọng cao cả. Lão tự trọng từ với một con chó, với con trai lão, với bà con hàng xóm, với ông giáo và với cả chính bản thân mình. Bán đi một con chó – con vật mà người ta nuôi vốn để bán, để giết thịt mà lão ám ảnh day dứt không nguôi. Lão tự trách mình vì “bằng này tuổi đầu mà còn trót lừa một con chó”, nhớ ánh mắt của cậu Vàng mà dằn vặt không yên. Ngay cả lúc khó khăn tột cùng, lão vẫn từ chối mọi sự giúp đỡ của ông giáo. Lão tự chuẩn bị sẵn tiền làm ma cho bản thân, gửi ông giáo, để khi lão có việc thì ông giáo đưa ra, coi như là của lão có chút ít, còn lại thì nhờ bà con hàng xóm cả. Lão làm vậy để không phiền lụy tới ai. Từ đó, lão bòn vườn, mò cua, ốc, trai ăn để sống qua ngày, thà chết chứ không chịu mắc nợ ai. Lão xin Binh Tư ít bả chó để tự tử, để giữ vẹn nguyên tấm lòng trong sáng của lão, từ chối con đường tha hóa, đánh mất nhân cách.
Lão ăn bả chó, vật vã, quằn quại trong đau đớn,… Cái chết của lão đầy xót xa và ám ảnh, nó là biểu hiện quyết liệt nhất cho lòng tự trọng của người nông dân chính trực tuy nghèo nhưng trong sạch. Chết là bi kịch là đớn đau, nhưng đồng thời cũng là con đường giải thoát cho cuộc đời nhiều gò ép, bất hạnh của lão Hạc, tạo nên hình tượng vô cùng đẹp đẽ.
Có thể nói, Nam Cao đã rất thành công trong nghệ thuật xây dựng nhân vật điển hình, đại diện cho tầng lớp những người nông dân trong xã hội cũ: tuy đói nghèo nhưng có những phẩm chất cao đẹp. Với cốt truyện sâu sắc, phong cách kể chuyện độc đáo, lão Hạc hiện lên là nhân vật vô cùng đẹp đẽ, với tấm lòng và nhân cách đáng trân trọng. Qua cái nhìn của ông giáo – một nhà trí thức, Nam Cao đã gián tiếp thể hiện tấm lòng của mình với người nông dân và đặt ra những vấn đề triết lý nhân sinh sâu sắc. Đặc biệt, tác giả cũng đã sử dụng nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật khéo léo. Tâm lý lão Hạc được thể hiện qua những hành động, lời nói, nhiều đoạn đối thoại mà như độc thoại. Bên cạnh đó, tác giả cũng sử dụng nhiều khẩu ngữ, làm câu chuyện chân thực, sinh động, gần gũi với người nông dân.
Những thành công về nội dung và nghệ thuật, đặc biệt là cuộc đời và vẻ đẹp nhân cách của lão Hạc đã góp phần đưa truyện ngắn cùng tên trở thành một trong số những tác phẩm tiêu biểu của thời đại. Đặc biệt, hình tượng nhân vật lão Hạc đã trở thành hình tượng điển hình, tiêu biểu cho cả một tầng lớp đáng trân trọng của xã hội.
Nam Cao là một nhà văn lớn của phong trào văn học hiện thực trong thế kỉ XX, sở trường của ông là viết về người nông dân, nông thôn. Bằng sự am hiểu cùng sự tinh tế trong cảm nhận cũng như khả năng sáng tạo của mình, Nam Cao đã xây dựng thành công nhiều hình tượng người nông dân nghèo trong xã hội phong kiến xưa, họ là những con người nghèo khổ và chính cái nghèo khổ ấy đã đẩy họ vào tình cảnh bi thảm. Nhưng trong đói nghèo những con người ấy vẫn sáng lên những phẩm chất khiến ta khâm phục. Truyện ngắn lão Hạc là một tác phẩm như thế.
Truyện ngắn Lão Hạc xoay quanh cuộc đời và số phận đầy bi thảm của Lão Hạc, trong câu chuyện và cái chết đầy đau đớn của lão Hạc có liên quan đến một con vật, đó chính là Cậu Vàng- một con chó của Lão Hạc. Tuy không miêu tả nhiều mà chỉ xuất hiện qua câu chuyện của Lão Hạc và ông Giáo nhưng ta cũng có chút liên tưởng về nhân vật cậu Vàng này.
Cậu Vàng là một con chó mà cậu con trai lão Hạc để lại cho lão trước khi đi đồn điền cao su. Ngay tên cậu Vàng đã thể hiện được thái độ trân trọng cũng như tình yêu thương mà lão Hạc dành cho cậu Vàng. Lão đối xử với cậu vàng như chính con trai của mình. Bởi vậy với lão hạc mà nói, cậu Vàng không chỉ là một con chó mà đó còn là một người bạn, một người con, một người thân yêu trong gia đình.
Cậu Vàng đã cùng Lão Hạc trải qua bao nhiêu gian khổ của cuộc sống, bầu bạn với lão trong những ngày tháng cô đơn nhất của Lão. Bởi vậy mà khi phải quyết định bán cậu Vàng thì Lão Hạc đã vô cùng đau khổ, phân vân. Vì nghèo đói, lại bệnh tật không thể làm ra tiền mà cậu Vàng lại ăn nhiều khiến lão Hạc tính đến khả năng phải bán cậu Vàng: "Sau trận ốm, lão yếu đi ghê lắm. Những công việc nặng không làm được nữa. Làng sợ mất vé sợi, nghề vải đành phải bỏ. Đàn bà dỗi dãi nhiều. Còn tí việc nhẹ nhàng nào họ tranh giành nhau làm tất cả. Lão Hạc không có việc. Rồi lại bão. Hoa màu bị phá sạch sành sanh...Một lão với một con chó,mỗi ngày ba ào gạo, mà ra sự, vẫn con đói deo đói dắt".
Nghĩa là bị dồn đến đường cùng, không còn cách nào khác thì Lão Hạc mới phải bán cậu Vàng. Để có quyết đình này, lão Hạc đã rất nhiều lần sang nhà ông Giáo để hỏi ý kiến, tâm sự : "Tính ra cậu Vàng ăn khỏe hơn cả tôi ông giáo ạ. Mỗi ngày cậu ấy ăn thế, bỏ rẻ cũng mất hào rưỡi, hào rưỡi đấy. Cứ mãi thế này thì tôi lấy tiền đâu mà nuôi được? Mà cho cậu ấy ăn ít thì cậu ấy gầy đi, bán hụt tiền, có phải hoài không?
Khi bị bán, cậu Vàng như hiểu được lòng của Lão Hạc nên không phản kháng, kêu la mà chỉ nằm im đợi người ta bắt đi, cũng chính ánh mắt buồn, tuyệt vọng của cậu Vàng đã ám ảnh gây ra bao day dứt cho Lão Hạc: "Nó cứ nằm in như nó trách tôi; nó kêu ư ử, nhìn tôi". Lão Hạc đã không ngừng trách mình và nhìn sự ngoan ngoãn của cậu Vàng khi bị bán như một lời trách móc của cậu vàng: "...nhìn tôi như muốn nói: " A! lão già tệ lắm! Tôi ăn ở với lão như thế mà lão xử tôi như thế này à".
Như vậy, nhân vật cậu Vàng tuy không được miêu tả trực tiếp mà chỉ được xuất hiện qua những câu chuyện của Lão Hạc với ông Giáo nhưng ta có thể thấy được cậu Vàng là một nhân tố quan trọng của Lão Hạc, làm cho nhân vật Lão Hạc bộc lộ ra những phẩm chất đáng quý của mình.
Không có con chó vàng, có lẽ truyện "Lão Hạc" không thể nào sâu lắng và cảm động đến thế. Dùng con vật như một đối sánh để khắc hoạ chân dung con người không còn là một thủ pháp nghệ thuật xa lạ nữa. Trở đi trở lại trong nhiều tác phẩm của Nam Cao, con chó đã thực sự là một tình tiết nghệ thuật đắt giá. Vậy mà ám ảnh hơn cả vẫn là cậu Vàng của ông lão này thôi.
Ở đây, con chó nào đâu chỉ sắm một vai truyện. Cậu Vàng còn như một phần của lão Hạc. Liệu có thể hình dung đầy đủ về lão Hạc, nếu thiếu đi con chó ấy? Rõ ràng, Nam Cao có dụng ý đối chiếu ý thức sở hữu của anh trí thức và người nông dân. Ông giáo vô cùng quý những cuốn sách của mình. Nhưng với ông giáo, sách chỉ là một kỉ vật về thời gian đầy mơ ước và cũng chỉ thế thôi! Con chó Vàng với lão Hạc thì biết bao ý nghĩa. Nó là một tài sản "Lão lẩm nhẩm quy ra tiền", một "vật nuôi định bụng lúc cưới thằng con sẽ thịt", nó còn là kỉ vật của đứa con trai, một mối dây liên lạc lạ lùng giữa lão và đứa con trai vắng mặt.
Song, phát hiện sâu sắc đến kì lạ của ngòi bút Nam Cao ở đây, vẫn là tư cách thứ tư của nó: một thành viên trong gia đình lão Hạc. Có một đứa con độc nhất thì đã bỏ lão mà đi. Sống cô quạnh trong một tuổi già trống trơ, lạnh lẽo, lão có một nhu cầu rất tự nhiên: được làm cha, làm ông nội. Có bao nhiêu tình cảm chất chứa trong lòng, lão dồn hết vào con chó. Lão coi nó như một đứa con, rồi chăm chút cưu mang như một đứa cháu nội bé bỏng, côi cút: lão bắt rận, lão tắm, lão trò chuyện âu yếm. Lão gọi là "cậu Vàng" như một bà hiếm hoi gọi đứa con cầu tự. Lão mắng yêu, lão cưng nựng, dấu dí. Cứ thế, ranh giới, sự phân đẳng người - vật (chủ sở hữu và vật bị chiếm hữu) đã bị xóa nhòa từ bao giờ. Dường như vật nuôi đã được người hóa.
Cũng vì thế mà khi cuộc sống tàn ác buộc lão phải chà đạp, phải thủ tiêu quan hệ tình cảm này, lão đã rơi vào bi kịch. Lúc đường cùng, buộc phải trả con chó về địa vị thông thường của một vật nuôi, một tài sản, nghĩa là xóa bỏ tư cách một kỉ vật, một thành viên, một người bạn tận tụy trung thành, đối với lão là một tội hình khòng thể tha thứ.
Con chó không chỉ làm hiện lên nguyên vẹn tính người tự nhiên sâu thẳm trong lão Hạc. Đằng sau đó, Nam Cao còn kín đáo kí thác một triết lí đau buồn vẻ thân phận trớ trêu của con người trên mặt đất này
... Không có con chó vàng, có lẽ truyện "Lão Hạc” không thể nào sâu lắng và cảm động đến thế. Dùng con vật như một đối sánh để khắc hoạ chân dung con người không còn là một thủ pháp nghệ thuật xa lạ nữa. Trở đi trở lại trong nhiều tác phẩm của Nam Cao, con chó đã thực sự là một tình tiết nghệ thuật đắt giá. Vậy mà ám ảnh hơn cả vẫn là cậu Vàng của ông lão này thôi.
Ở đây, con chó nào đâu chỉ sắm một vai truyện. Cậu Vàng còn như một phần của lão Hạc. Liệu có thể hình dung đầy đủ về lão Hạc, nếu thiếu đi con chó ấy? Rõ ràng, Nam Cao có dụng ý đối chiếu ý thức sở hữu của anh trí thức và người nông dân. Ông giáo vô cùng quý những cuốn sách của mình. Nhưng với ông giáo, sách chỉ là một kỉ vật về thời gian đầy mơ ước và cũng chỉ thế thôi! Con chó Vàng với lão Hạc thì biết bao ý nghĩa. Nó là một tài sản “Lão lẩm nhẩm quy ra tiền”, một “vật nuôi định bụng lúc cưới thằng con sẽ thịt”, nó còn là kỉ vật của đứa con trai, một mối dây liên lạc lạ lùng giữa lão và đứa con trai vắng mặt.
Song, phát hiện sâu sắc đến kì lạ của ngòi bút Nam Cao ở đây, vẫn là tư cách thứ tư của nó: một thành viên trong gia đình lão Hạc. Có một đứa con độc nhất thì đã bỏ lão mà đi. Sống cô quạnh trong một tuổi già trống trơ, lạnh lẽo, lão có một nhu cầu rất tự nhiên: được làm cha, làm ông nội. Có bao nhiêu tình cảm chất chứa trong lòng, lão dồn hết vào con chó. Lão coi nó như một đứa con, rồi chăm chút cưu mang như một đứa cháu nội bé bỏng, côi cút: lão bắt rận, lão tắm, lão trò chuyện âu yếm. Lão gọi là “cậu Vàng” như một bà hiếm hoi gọi đứa con cầu tự. Lão mắng yêu, lão cưng nựng, dấu dí. Cứ thế, ranh giới, sự phân đẳng người - vật (chủ sở hữu và vật bị chiếm hữu) đã bị xóa nhòa từ bao giờ. Dường như vật nuôi đã được người hóa.
Cũng vì thế mà khi cuộc sống tàn ác buộc lão phải chà đạp, phải thủ tiêu quan hệ tình cảm này, lão đã rơi vào bi kịch. Lúc đường cùng, buộc phải trả con chó về địa vị thông thường của một vật nuôi, một tài sản, nghĩa là xóa bỏ tư cách một kỉ vật, một thành viên, một người bạn tận tụy trung thành, đối với lão là một tội hình khòng thể tha thứ.
Con chó không chỉ làm hiện lên nguyên vẹn tính người tự nhiên sâu thẳm trong lão Hạc. Đằng sau đó, Nam Cao còn kín đáo kí thác một triết lí đau buồn vẻ thân phận trớ trêu của con người trên mặt đất này.