trc buổi học : cậu bé Phrăng là người ham chơi ko lo cho việc học
trong buổi học : chăm chú học, coi sách là cố tri,buồn vì đã bỏ lỡ bao buổi học, thấy tội thầy giáo.
sau buổi học: buồn bã nhìn về phía thầy
trc buổi học : cậu bé Phrăng là người ham chơi ko lo cho việc học
trong buổi học : chăm chú học, coi sách là cố tri,buồn vì đã bỏ lỡ bao buổi học, thấy tội thầy giáo.
sau buổi học: buồn bã nhìn về phía thầy
Tả quang cảnh sân trường em vào buổi sáng sớm trước giờ học trong những ngày phòng chống dịch Covid-19.
Viết đoạn văn khoảng 8 đến 10 câu nêu cảm nhận của em về những buổi học buổi trợ đầu tiên sau khi nghỉ dịch trở lại trong đoạn văn có sử dụng ít nhất từ một từ láy một từ ghép
giúp mình với ặ hiuhiu,chiều mai mình phải nộp r
Em hãy kể tên các nhân vật lịch sử tiêu biểu nước ta trong buổi đầu giành được độc lập
Thanks các bạn trước nhé
Câu 6 (trang 26 sgk Ngữ văn lớp 7 Tập 1): Trong truyện “Buổi học cuối cùng”, em thích nhất nhân vật hoặc chi tiết, hình ảnh nào? Hãy viết một đoạn văn (khoảng 6-8 dòng) giải thích lí do vì sao em thích.
BUỔI HỌC CUỐI CÙNG
Buổi sáng hôm ấy, đã quá trễ giờ đến lớp, tôi rất sợ bị quở mắng, càng sợ vì thầy Ha-men đã dặn trước rằng thầy sẽ hỏi bài chúng tôi về các phân từ mà tôi chẳng thuộc lấy một chữ. Tôi thoáng nghĩ hay là trốn học và rong chơi ngoài đồng nội.
Trời sao mà ấm đến thế, trong trẻo đến thế!
Nghe thấy sáo hót ven rừng và trên cánh đồng Ríp-pe, sau xưởng cưa, lính Phổ đang tập. Tất cả những cái đó cám dỗ tôi hơn là quy tắc về phân từ; nhưng tôi cưỡng lại được, và ba chân bốn cẳng chạy đến trường.
Khi qua trước trụ sở xã, tôi thấy có nhiều người đứng trước bảng dán cáo thị có lưới che. Từ hai năm nay, chính từ chỗ ấy, lan đến chúng tôi mọi tin chẳng lành, những cuộc thất trận, những vụ trưng thu, những mệnh lệnh của ban chỉ huy Đức; và tôi nghĩ mà không dừng chân: “Lại có chuyện gì nữa đây?”.
Bác phó rèn Oát-stơ đang đọc cáo thị cùng cậu học việc thấy tôi chạy qua liền lớn tiếng bảo:
- Đừng vội vã thế cháu ơi, đến trường lúc nào cũng vẫn còn là sớm!
Tôi tưởng bác chế nhạo tôi và tôi hổn hển thở dốc, bước vào khoảng sân nhỏ nhà thầy Ha-men.
Thông thường, bắt đầu buổi học, tiếng ồn ào như vỡ chợ vang ra tận ngoài phố, nào tiếng ngăn bàn đóng mở, tiếng mọi người vừa đồng thanh nhắc lại rất to các bài học, vừa bịt tai lại cho dễ thuộc và tiếng chiếc thước kẻ to tướng của thầy gõ xuống bàn:
- Yên một chút nào!
Tôi định nhân lúc ồn ào, hỗn độn ấy lẻn vào chỗ ngồi để không ai trông thấy; nhưng đúng ngày hôm đó, mọi sự đều bình lặng y như một buổi sáng chủ nhật. Qua cửa sổ mở, tôi thấy các bạn đã ngồi vào chỗ, và thầy Ha-men đi đi lại lại với cây thước sắt khủng khiếp kẹp dưới nách. Phải mở cửa đi vào giữa sự lặng ngắt đó, các bạn tưởng tượng xem tôi đỏ mặt tía tai và sợ đến chừng nào!
Thế mà không. Thầy Ha-men nhìn tôi chẳng giận dữ và bảo tôi thật dịu dàng:
- Phrăng, vào chỗ nhanh lên con; lớp sắp bắt đầu học mà vắng mặt con.
Tôi bước qua ghế dài và ngồi ngay xuống trước bàn mình. Chỉ đến lúc ấy, đã hơi hoàn hồn, tôi mới nhận ra thầy giáo chúng tôi mặc chiếc áo rơ-đanh-gốt màu xanh lục, diềm lá sen gấp nếp mịn và đội cái mũ tròn bằng lụa đen thêu mà thầy chỉ dùng vào những hôm có thanh tra hoặc phát phần thưởng. Ngoài ra, lớp học có cái gì đó khác thường và trang trọng. Nhưng điều làm tôi ngạc nhiên hơn cả, là trông thấy ở phía cuối lớp, trên những hàng ghế thường bỏ trống, dân làng ngồi lặng lẽ giống như chúng tôi, cụ già Hô-de, trước đây là xã trưởng với cái mũ ba sừng, bác phát thư trước đây, và nhiều người khác nữa.
Ai nấy đều có vẻ buồn rầu; và cụ Hô-de mang theo quyển tập đánh vần cũ đã sờn mép để mở rộng trên lòng, cặp kính lớn đặt ngang trang sách.
Tôi còn đang ngạc nhiên về tất cả những điều đó thì thầy Ha-men đã bước lên bục, rồi vẫn với giọng dịu dàng và trang trọng như lúc tôi mới vào, thầy nói với chúng tôi:
- Các con ơi, đây là lần cuối cùng thầy dạy các con. Lệnh từ Béc-lin là từ nay chỉ dạy tiếng Đức ở các trường vùng An-dát và Lo-ren… Thầy giáo mới ngày mai sẽ đến. Hôm nay là bài học Pháp văn cuối cùng của các con. Thầy mong các con hết sức chú ý.
Mấy lời đó làm tôi choáng váng. A! Quân khốn nạn, thì ra đó là điều chúng vừa niêm yết ở trụ sở xã.
Bài học Pháp văn cuối cùng của tôi!...
Mà tôi thì mới biết viết tập toạng! Vậy là sẽ chẳng bao giờ được học nữa ư, phải dừng ở đó ư!... Giờ đây tôi tự giận mình biết mấy về thời gian bỏ phí, về những buổi trốn học đi bắt tổ chim hoặc trượt trên hồ. Những cuốn sách vừa nãy tôi còn thấy chán ngán đến thế, mang nặng đến thế, quyển ngữ pháp, quyển thánh sử của tôi giờ đây dường như những người bạn cố tri mà tôi sẽ rất đau lòng phải giã từ. Cũng giống như thầy Ha-men. Cứ nghĩ thầy sắp ra đi và tôi không còn được gặp thầy nữa, là tôi quên cả những lúc thầy phạt, thầy vụt thước kẻ.
Tội nghiệp thầy!
Chính để tôn vinh buổi học cuối cùng này mà thầy đã vận y phục đẹp ngày chủ nhật và bây giờ tôi hiểu vì sao các cụ già trong làng lại đến ngồi ở cuối lớp học. Điều đó như nói rằng các cụ tiếc đã không lui tới ngôi trường này thường xuyên hơn. Dường như đó cũng là một cách để tạ ơn thầy giáo chúng tôi về bốn mươi năm phụng sự hết lòng, và để trọn đạo với Tổ quốc đang ra đi…
Tôi đang suy nghĩ mung lung thì bỗng nghe gọi tên mình. Đến lượt tôi đọc bài. Giá mà tôi đọc được trót lọt cái quy tắc về phân từ hay ho ấy, đọc thật to, thật dõng dạc, không phạm một lỗi nào thì dù có phải đánh đổi gì cũng cam; nhưng tôi lúng túng ngay từ đầu và tôi cứ đứng đung đưa người trước chiếc ghế dài, lòng rầu rĩ, không dám ngẩng đầu lên. Tôi nghe thấy thầy Ha-men bảo tôi:
- Phrăng ạ, thầy sẽ không mắng con đâu, con bị trừng phạt thế là đủ rồi… con thấy đó. Ngày nào người ta cũng tự nhủ: “Chà! Còn khối thì giờ. Ngày mai ta sẽ học”. Và rồi con thấy điều gì xảy đến… Ôi! Tai hoạ lớn của xứ An-dát chúng ta là bao giờ cũng hoãn việc học đến ngày mai. Giờ đây những kẻ kia có quyền bảo chúng ta rằng: “Thế nào! Các người tự nhận là dân Pháp, vậy mà các người chẳng biết đọc, biết viết tiếng của các người!...” Dù thế nào, thì Phrăng tội nghiệp của thầy ạ, con vẫn chưa phải là người đáng tội nhất! Mà tất cả chúng ta ai cũng có phần đáng tự chê trách.
Cha mẹ các con không thiết tha lắm với việc thấy các con có học thức. Cha mẹ thích cho các con làm việc đồng áng hoặc vào làm nhà máy sợi để kiếm thêm dăm xu. Cả thầy cũng không có gì để trách mình ư? Thầy đã chẳng sai các con tưới vườn thay vì học hành đó sao? Và khi thầy muốn đi câu cá hương, thầy có ngại ngùng cho các con nghỉ học đâu?...
Thế rồi, từ điều này sang điều khác, thầy Ha-men nói với chúng tôi về tiếng Pháp, bảo rằng đó là ngôn ngữ hay nhất thế giới, trong sáng nhất, vững vàng nhất: phải giữ lấy nó trong chúng ta và đừng bao giờ quên lãng nó, bởi vì khi một dân tộc rơi vào vòng nô lệ, chừng nào họ vẫn giữ vững tiếng nói của mình thì chẳng khác gì nắm được chìa khoá chốn lao tù…
Rồi thầy cầm một quyển ngữ pháp và đọc bài học cho chúng tôi. Tôi kinh ngạc thấy sao mình hiểu đến thế. Tất cả những điều thầy nói, tôi thấy thật dễ dàng, dễ dàng. Tôi cũng cho là chưa bao giờ mình chăm chú nghe đến thế, và cả thầy giáo nữa, chưa bao giờ thầy kiên nhẫn giảng giải đến thế. Cứ như thể trước khi ra đi, con người tội nghiệp muốn truyền thụ toàn bộ tri thức của mình, muốn đưa ngay một lúc tri thức ấy vào đầu óc chúng tôi.
Xong bài giảng, chuyển sang viết tập. Thầy Ha-men đã chuẩn bị cho ngày hôm đó những tờ mẫu mới tinh, trên có viết bằng “chữ rông” thật đẹp: Pháp, An-dát, Pháp, An-dát. Những tờ mẫu treo trước bàn học trông như những lá cờ nhỏ bay phấp phới khắp xung quanh lớp. Ai nấy đều chăm chú hết sức và cứ im phăng phắc! Chỉ nghe thấy tiếng ngòi bút sột soạt trên giấy. Có lúc những con bọ dừa bay vào nhưng chẳng ai để ý, ngay cả những trò nhỏ nhất cũng vậy, chúng đang cặm cụi vạch những nét sổ với một tấm lòng, một ý thức, như thể cái đó cũng là tiếng Pháp… Trên mái nhà trường, chim bồ câu gù thật khẽ, và tôi vừa nghe vừa tự nhủ:
- Liệu người ta có bắt cả chúng nó cũng phải hót bằng tiếng Đức không nhỉ?
Chốc chốc, ngước mắt khỏi trang giấy, tôi thấy thầy Ha-men đứng lặng im trên bục và đăm đăm nhìn những đồ vật quanh mình như muốn mang theo trong ánh mắt toàn bộ ngôi trường nhỏ bé của thầy… Bạn nghĩ mà xem! Từ bốn mươi năm nay, thầy vẫn ngồi ở chỗ ấy, với khoảng sân trước mặt và lớp học y nguyên không thay đổi. Có chăng những chiếc ghế dài, những bàn học dùng nhiều đã nhẵn bóng, những cây hồ đào ngoài sân đã lớn, và cây hu-blông tự tay thầy trồng giờ đây quấn quýt quanh các khung cửa sổ lên tận mái nhà. Con người tội nghiệp hẳn phải nát lòng biết mấy khi giã từ tất cả những vật ấy, khi nghe thấy tiếng người em gái đi đi lại lại, đóng hòm xiểng, ở gian phòng bên trên, vì ngày mai họ phải ra đi, rời khỏi xứ sở này mãi mãi.
Tuy nhiên, thầy vẫn đủ can đảm dạy chúng tôi cho đến hết buổi. Sau tiết viết tập đến bài Lịch sử, rồi những trò nhỏ cất tiếng đọc đồng thanh như hát Ba Be Bi Bo Bu. Đằng kia, cuối phòng học, cụ Hô-de đã đeo kính lên, và nâng cuốn sách vỡ lòng bằng hai tay, cụ đánh vần từng chữ theo bọn trẻ. Cả cụ cũng chăm chú, giọng cụ run run vì xúc động; nghe cụ đọc thật kỳ cục, đến nỗi tất cả chúng tôi muốn cười và cũng muốn khóc… Ôi! Tôi sẽ nhớ mãi buổi học cuối cùng này!
Bỗng đồng hồ nhà thờ điểm mười hai giờ, rồi đến chuông cầu nguyện buổi trưa. Cùng lúc đó, tiếng kèn của bọn lính Phổ đi tập về vang lên ngoài cửa sổ… Thầy Ha-men đứng dậy trên bục, người tái nhợt. Chưa bao giờ tôi cảm thấy thầy lớn lao đến thế.
- Các bạn, thầy nói, hỡi các bạn, tôi… tôi…
Nhưng cái gì đó khiến thầy nghẹn ngào, không nói được hết câu.
Thầy bèn quay về phía bảng, cầm một hòn phấn và dằn mạnh hết sức, thầy cố viết thật to:
“NƯỚC PHÁP MUÔN NĂM!”.
Rồi thầy đứng đó, đầu dựa vào tường, và chẳng nói, giơ tay ra hiệu cho chúng tôi:
“Kết thúc rồi… đi đi thôi!”.
Trả lời câu hỏi:
Trong truyện có những nhân vật nào? Tìm các chi tiết miêu tả hành động, cử chỉ, lời nói, suy nghĩ của các nhân vật và nhận xét về nhân vật đó.
Giúp mình với, tối nay mình nộp rùi :<<
Qua các nội dung được miêu tả trong bài thơ “Buổi chiều đứng ở phủ Thiên Trường trông ra”, em có những cảm nhận gì trước cảnh tượng buổi chiều đứng ở phủ Thiên Trường và về tâm trạng của tác giả trước cảnh tượng đó?
Bài học trong rừng Buổi sáng, nhím con theo mẹ đi tìm nấm. Hai mẹ con đi vào một khu rừng cây cối xanh tươi. Nhím con xách chiếc làn nhỏ chạy tung tăng. Lúc thì nhím con chạy phía trước, lúc thì lùi lại phía sau, lúc thì rung cho cây sim rụng đầy trái chín, khi thì lại chui vào một bụi mâm xôi dày những chùm quả ngọt. Trong khi nhím mẹ cần mẫn nhặt nấm thì nhím con chỉ mải chơi. Giỏ nấm của nhím mẹ đã gần đầy mà chiếc làn của nhím con vẫn chỉ có mấy quả sim chín và vài bông hoa rừng héo quắt. Giữa lúc nhím con đang định gặm một ngọn măng vừa nhú lên khỏi mặt đất thì nghe hộc một tiếng và ai đó quát to: - Thằng nhãi kia! Ai cho mày xâm phạm vào khu rừng của tao hả? Nhím con giật mình hốt hoảng nhìn lên. Một lão lợn rừng lông lù xù dựng ngược trông rất bẩn thỉu đang trợn mắt đứng ngay trước mặt. - Cháu cháu Nhím con lắp bắp và sợ hãi lùi lại. Lão lợn rừng nhe nanh gầm gừ tiến đến. Nhím con run cầm cập gọi to: Mẹ ơi! Cứu cứu con. Lão lợn rừng cào cào hai chân trước xuống đất rồi hung hăng phóng đến. Tiếng chân của lão phầm phập. Tiếng cành cây khô gẫy răng rắc. Nhím con sợ quá ôm mặt nhắm mắt lại ngã lăn ra đất. Chợt nhím con nghe tiếng lợn kêu eng éc. Nó mở mắt ra nhìn. Phía trước mặt nó là nhím mẹ đang xù lông tua tủa như chông che chở cho con. Lão lợn rừng hung hăng lao ngay vào những chiếc lông nhím nhọn hoắt. Lão đau đớn rú lên thảm thiết rồi quay đầu chạy mất. Nhím con lúc này mới hoàn hồn. Nhặt những chiếc nấm bị rơi ra bỏ vào giỏ, nhím mẹ dặn con: - Đừng chạy lung tung và nhớ luôn đi gần mẹ nhé! - Vâng ạ! Nhím con đáp và ngước đôi mắt trong veo nhìn mẹ vẻ khâm phục. Nó không ngờ lão lợn rừng to lớn hung dữ thế mà lại phải thua mẹ. Mẹ thật là dũng cảm. Mẹ thật là vĩ đại. Nhím con nghĩ. Thấy vui quá, nhím con líu lo hát bài hát Buổi sáng trong rừng. Trong khi đó nhím mẹ vẫn cặm cụi nhặt nấm. Chợt lại có tiếng nhím con kêu oai oái: Mẹ ơi! Đau quá, mẹ ơi!. Nhím mẹ vội chạy đến. Nhím con ngồi bệt xuống đất giơ chân lên giẫy giụa. Nhím mẹ nhìn kỹ, trong kẽ chân của nhím con có những chú kiến lửa đang ra sức dùng gươm giáo đâm chém loạn xạ. Thì ra, giữa lúc đang rất vui vì mẹ vừa đánh bại lão lợn rừng to lớn thì nhím con chợt nhìn thấy mấy con kiến lửa bé tí đang làm tổ. A! Mấy thằng nhóc con- Nhím con nghĩ vậy và giơ chân đạp mạnh vào tổ kiến. Bị phá tổ, đội quân xung kích trong đàn kiến lửa lập tức cầm gươm giáo xông lên ngay. Vừa gỡ những chú kiến đang tức giận ra khỏi bàn chân của nhím con, nhím mẹ vừa nói: - Con phải nhớ là ở đời, đừng thấy những kẻ to lớn mà vội nghĩ mình là nhỏ bé, yếu đuối, buông xuôi, khuất phục. Nhưng cũng đừng nhìn những người nhỏ bé mà cho rằng mình to lớn, mạnh hơn rồi kiêu ngạo lên mặt hống hách coi thường họ con ạ! Nhím con vừa xoa xoa những chỗ đau vừa lí nhí đáp: - Vâng vâng! Con con đã hiểu rồi mẹ ạ! Buổi đi hái nấm trong rừng đã cho nhím con một bài học thật là thấm thía và bổ ích như thế đấy. (Trọng Bảo)
Câu 1: Nhân vật Nhím con được tác giả miêu tả qua những chi tiết nào? Qua đó ta thấy nhím con có những nét tính cách gì?
Sau khi hiểu được giá trị của bài thơ buổi chiều đứng ở phủ thiên trường trông ra, em có suy nghĩ gì khi nhớ rằng tác giả là một ông vua chứ không phải là một dân quê ?
Phương thức biểu đạt trong bài buổi học cuối cùng là gì?