- Lắc-ki lớn nhanh như thổi, được sống trong sự yêu thương của bầy mèo. chẳng mấy chốc đã ra dáng một con hải âu tuổi thiếu niên.
* Cuộc nói chuyện của Lắc-ki với con đười ươi Mét-thiu:
+ Thời điểm: Một buổi chiều, tại một tiệm tạp hóa.
+ Hành động và lời nói của các nhân vật:
Mét-thiu độc ác, thô lỗ.
- Lời nói miệt thị, cay độc, rít lên và gọi Lucky là “con nhỏ bẩn thỉu kia”.
- Hách dịch, đánh đồng “Chim chóc con nào chẳng thế.”
- Reo những ý nghĩ xấu vào đầu Lắc-ki:
+ Gọi những con mèo là “khố rách áo ôm”.
+ Phân biệt sự khác nhau giữa Lắc-ki và những con mèo.
+ Chê Lắc-ki giống giáo sư mèo thông thái “dở hơi”, “đần độn”.
+ Reo ý xấu: “Chúng nó đợi mày béo nẫn ra rồi làm thụt mày thành bữa ăn ra trò.”
→ Miệt thị, lời nói cay độc.
Lắc-ki ngây thơ, ngoan ngoãn
- Rụt rè, lễ phép hỏi lại khi bị miệt thị “Tại sao ngày lại gọi cháu thế, thưa ngài khỉ?”
- Giải thích, tìm sự đồng cảm từ người có ác ý “Ngài nhầm rồi.... Anh-xtanh”
→ Buồn tủi, chịu sự tác động về tâm lí.
* Cuộc nói chuyện của Lắc-ki với những con mèo
+ Cuộc trò chuyện thứ nhất:
Lắc-ki:
- Dáng hình: lớn nhanh như thổi, ra dánh một con hải âu tuổi thiếu niên thon thả vưới lớp lông vũ mềm màu bạc.
- Được yêu thương: được bao bọc trong sự yêu thương, sống trong tiệm tạp hóa của Ha-ri.
- Rất nghe lời: theo hướng dẫn của Đại Tá co mình nằm bất động giả vờ là những con chim nhồi bông.
- Thích khám phá: trầm trồ trước hàng nghìn loại vật thể chứa trong các căn phòng.
- Mong muốn được hòa nhập với loài mèo:
+ Hỏi “Tại sao con lại phải bay?”
+ Khẳng định mong muốn “Nhưng con không thích bay. Và con cũng không thích làm hải âu”, “Con muốn làm mèo, mà mèo thì không bay.”
Anh-xtanh
- Giáo sư mèo thông thái hết lòng giúp: Tìm trong mọi cuốn sách để tìm phương pháp giúp Lắc-ki học bay.
+ Giải thích cho lắc-ki hiểu rằng Lắc-ki là hải âu.
+ Điểm đặc trưng: “thật là khủng khiếp”.
à Cuộc nói chuyện thể hiện sự yêu thương từ cả giáo sư mèo và Lắc-ki. Thấy được ước muốn hòa nhập, tự coi bản thân là mèo của Lắc-ki.
+ Cuộc trò chuyện thứ hai:
Thời gian: Chiều hôm cùng ngày sau khi Lắc-ki nói chuyện với Mét-thiu
Lắc-ki:
- Tâm trạng buồn bã:
+ Không xuất hiện xơi món mực ống yêu thích.
+ Chui rúc, trốn tránh giữa đám thú nhồi bông,
+ Khi được hỏi, không buồn hé mỏ.
+ Hỏi mà không ngẩng đầu “Má muốn con ăn để con béo tròn, ngon lành phải không?”
+ Vừa kể vừa nước mắt lưng tròng.
- Sợ hãi việc tập bay “Con sợ bay lắm.”
- Yêu thương, biết ơn “Con chim duỗi một cánh vắt ngang lưng con mèo.”
Gióc-ba:
Tình yêu thương:
- Xe-crét-ta-ri-ô chôm món yêu thích cho Lắc-ki.
- Lo lắng vì không thấy Lắc-ki, đi tìm hỏi chuyện.
- Giải thích lí lẽ:
+ Khẳng định điểm đúng của Mét-thiu
+ Phân tích điểm sai để thể hiện tình yêu thương.
+ Công nhận tình cảm của Lắc-ki với chúng.
+ Phân tích điểm thú vị khi thành một con hải âu.
- Luôn sẵn sàng ở cạnh cổ vũ khi Lắc-ki học bay.
- Hành động dịu dàng: “Con mèo dịu dàng liếm đầu con hải âu.”
→ Cuộc nói chuyện thể hiện tình yêu thương giữa cả hai loài vật dành cho nhau.