Bạn chưa đăng nhập. Vui lòng đăng nhập để hỏi bài
Le Van Viet

Mọi người cứu với , dùng ChatGDP cũng đc , viết hoàn chỉnh cho mình với 

Viết bài văn nghị luận phân tích, đánh giá đoạn văn sau:

“Yêu tháng chạp không biết bao nhiêu, nhưng yêu nhất là những ngày giáp tết, thời tiết sao mà đĩ thế, con mắt tấm lòng sao mà đong đưa thế, lời nói, tiếng chào sao mà duyên dáng tơ mơ thế.

Tôi yêu hết và tôi nói là tôi yêu hết; yêu ngọn cỏ gió đùa, mây trôi lãng đãng, ngọn núi đồi sim, nhựa cây mạch đất, yêu con sâu cái kiến nằm co ro trong tổ bấy giờ trỗi lên tìm lá mới hoa non, yêu cô gái mặc quần lĩnh hoa chanh lại cài một cánh hoa hồng trên mái tóc, yêu con bướm đa tình bay lượn trên giàn hoa thiên lí, cái áo nhung xanh nổi bật lên trong vườn quýt đỏ, cam vàng, trông mới lại càng yêu những giọt mưa bé tỉ ti đọng lại trên nhung mướt làm cho người đẹp óng a óng ánh như thiên thần trong mộng. Cũng may mà cứ vào tháng chạp, ở đây, thỉnh thoảng lại có những đêm xanh gió thổi hiu hiu làm cho người thức khuya cảm thấy da tê tê, lành lạnh mà nghe như thấy tết đến xuân về trước ngõ nên cũng nguôi ngoai được phần nào, chớ cứ nắng chói chan, khô héo liền liền thi chỉ thương nhớ mà héo hắt đi, sống làm sao cho nổi.

Tết ở đây thiếu gì vải lụa của Thái Lan, Đại Hàn, thiếu gì đồ ăn thức uống của Nhật, của Mỹ, thiếu gì trái ngon, gái đẹp “lô can”, nhưng cơn cớ làm sao mỗi khi có sự giao tiễn đôi mùa thì lòng lại hướng về quê cũ xa xưa, mơ lại ngày nào cùng vợ đi mua đôi ba chậu cúc vàng, quất đỏ, rồi về ăn quấy quá cho xong để lại đi ù lên Ngọc Hà mua mấy cánh mẫu đơn về để cắm bình, không quên vài tấm giấy đỏ để gói tiền mở hàng cho trẻ, một chai Mai Quế Lộ hay Sử Quốc Công, hai vợ chồng đi dưới mưa riêu riêu dặn nhau phải nhớ mua một hộp trà Thiết Quan Âm vỏ thiếc và xẻ vài chai rượu nếp cẩm hạ thổ từ tháng tám!

Nhớ lại như thế thì quên làm sao được vào những ngày hai mươi bốn, hai mươi lăm vợ thức từ bốn năm giờ sáng, khoác một cái áo lạnh trên mình ngồi giữa sập sắp xếp các món đồ đem đi biếu tết những bạn bè thân thiết. Đó là cả một vấn đề phức tạp: hộp trà Thiết Quan Âm vỏ thiếc để biếu ông Long đã đành rồi, nhưng ông Luận hôm qua đã cho rượu, chả lẽ mình lại biếu rượu nữa, thôi hay là biếu cân mứt và chục cam Xã Đoài. Hộp kẹo này đưa sang bác Thanh Châu; chị Sen ơi, hai hộp trà mạn sen tự tay mợ ướp đây là để dành cho ông Chung, ông Chước; nhưng đến Nguyễn Dân Giám thì quả là khó nghĩ. Hôm hai mươi ba mới rồi, để đánh dấu tập “Dưới rặng thông” in làm phụ bản số tết, anh ta sai người làm đội một cái quả to bằng cái nia từ Hàng Cân đến Hàng Da, đầy đủ bún thang, chả quế, giò lụa, nước xuýt, bào ngư, hầu sì, cuốn; bây giờ biết đem biếu gì đây? Ấy, chỉ có thế mà nghĩ mãi không biết làm ăn ra thế nào.”

( Trích chương 12, “Thương nhớ mười haiVũ Bằng, NXB Văn Học, Hà Nội,1993)

 

Hùng
18 tháng 4 lúc 13:11

Vũ Bằng là một cây bút giàu cảm xúc, luôn viết bằng cả trái tim khi nhớ về Hà Nội – nơi chôn nhau cắt rốn của ông. Trong đoạn trích thuộc chương 12 của tác phẩm “Thương nhớ mười hai”, ông không chỉ gợi lại không khí những ngày giáp Tết mà còn thể hiện tình yêu quê hương sâu nặng, nỗi nhớ gia đình và truyền thống đẹp đẽ của dân tộc mỗi khi Tết đến, xuân về.

Đọc đoạn văn, ta như lạc vào một khung cảnh tháng Chạp thật sống động và có hồn. Tác giả miêu tả tất cả những gì thuộc về thiên nhiên, con người, không khí Tết với một tình yêu nồng nàn, đầy chất thơ: từ ngọn cỏ, nhành hoa, cánh bướm, giàn thiên lý cho đến cô gái mặc áo hoa chanh, áo nhung xanh trong vườn quýt đỏ. Mỗi chi tiết như đều được nhìn bằng “con mắt tấm lòng”, đầy yêu thương và trân trọng. Đặc biệt, cách dùng từ ngữ của Vũ Bằng rất độc đáo, vừa tinh tế lại vừa giàu hình ảnh – khiến người đọc không chỉ hình dung được không gian mà còn cảm nhận được mùi vị, màu sắc và cả hơi thở của Tết quê nhà.

Bên cạnh cảnh vật, hình ảnh người vợ cũng hiện lên rất cảm động. Đó là người phụ nữ chu toàn, đảm đang, dậy từ sáng sớm để sắp quà biếu Tết. Vũ Bằng không viết dài về vợ, nhưng từng chi tiết nhỏ đều chứa chan tình cảm: “khoác áo lạnh”, “ngồi giữa sập”, “sắp xếp các món đồ”… – tất cả gợi nên một gia đình ấm cúng, đầy yêu thương và gìn giữ nét truyền thống “biếu Tết” đầy nghĩa tình. Qua đó, người đọc càng thêm thấm thía cái tình, cái nghĩa vợ chồng, sự tử tế trong mối quan hệ giữa con người với nhau khi xuân về.

Điều đặc biệt hơn cả là trong một thế giới hiện đại, dù đầy đủ mọi thứ vật chất – “vải lụa Thái, đồ ăn Nhật, trái ngon gái đẹp” – nhưng tác giả vẫn đau đáu một nỗi nhớ quê. Những kỷ niệm xưa, những món đồ truyền thống, những thói quen tưởng chừng rất nhỏ bé của những ngày cuối năm lại trở nên thiêng liêng không gì thay thế được. Đó chính là tâm hồn của một người Việt xa xứ: càng sống trong xa hoa, hiện đại, lại càng khắc khoải với quá khứ, với những ngày Tết đậm đà hồn quê.

Qua đoạn văn, Vũ Bằng đã thể hiện một lối viết rất riêng – nhẹ nhàng, sâu sắc, vừa như kể chuyện, vừa như thổ lộ tâm tình. Không khí Tết trong văn ông không rực rỡ phô trương, mà ấm áp, thân quen và gần gũi như trong một bức tranh gia đình ngày cuối năm. Chính điều ấy khiến người đọc hôm nay, dù ở thời hiện đại, cũng không khỏi bồi hồi, xúc động khi đọc lại những dòng hoài niệm này.

Tóm lại, đoạn trích là một lát cắt đẹp về mùa Tết xưa, đồng thời cũng là tâm hồn của một người con đất Việt tha thiết với quê hương, với cội nguồn. Vũ Bằng không chỉ viết về Tết, ông đang viết về những gì đẹp nhất, thân thương nhất trong trái tim mỗi con người.

Xin lỗi vì gửi muộn...

Hùng
18 tháng 4 lúc 13:15

Trong nền văn học Việt Nam hiện đại, Vũ Bằng là một cây bút đặc biệt – không chỉ bởi vốn từ ngữ phong phú, giọng văn đậm chất trữ tình mà còn bởi tấm lòng luôn đau đáu hướng về quê hương, về những giá trị truyền thống của dân tộc. Trong tác phẩm “Thương nhớ mười hai”, ông đã khắc họa sâu sắc những cung bậc cảm xúc của một con người sống xa quê, nhưng trái tim thì chưa bao giờ rời khỏi đất mẹ. Đoạn trích trong chương 12 là một minh chứng rõ nét cho tình cảm da diết, nỗi hoài niệm day dứt và tình yêu sâu đậm dành cho không khí Tết cổ truyền của người Việt.

Mở đầu đoạn văn, tác giả thể hiện một cách chân thật và cảm xúc tình yêu đặc biệt dành cho tháng Chạp – tháng cuối cùng trong năm, khi những ngày Tết cận kề. Vũ Bằng viết: “Yêu tháng chạp không biết bao nhiêu, nhưng yêu nhất là những ngày giáp tết, thời tiết sao mà đĩ thế, con mắt tấm lòng sao mà đong đưa thế…”. Những từ ngữ như "đĩ", "đong đưa", "duyên dáng tơ mơ" được sử dụng một cách đầy hình ảnh và cảm xúc, gợi lên một không khí rộn ràng, thi vị. Đây không chỉ là cảm nhận về thời tiết, mà còn là cảm xúc rạo rực trong lòng người trước thềm năm mới – một cảm xúc rất riêng, rất Việt.

Tình yêu của Vũ Bằng đối với Tết không dừng lại ở những biểu hiện bên ngoài mà còn lan tỏa, chan chứa trong từng sự vật, từng hình ảnh thiên nhiên và con người: từ ngọn cỏ, đồi sim, nhựa cây, đến cô gái mặc quần lĩnh hoa chanh, cánh bướm đa tình, giọt mưa trên tà áo nhung xanh… Tất cả hiện lên sống động, lấp lánh qua đôi mắt đầy rung cảm của nhà văn. Ông không chỉ yêu những điều đẹp đẽ trong tự nhiên, mà còn yêu cả sự sống nhỏ bé, bình dị như “con sâu cái kiến”, cho thấy một tình cảm chan chứa, bao trùm, không phân biệt lớn nhỏ.

Tình yêu ấy càng trở nên thấm thía khi được đặt trong hoàn cảnh của một người sống xa quê. Trong đoạn giữa, tác giả thể hiện rõ sự đối lập giữa cuộc sống vật chất đủ đầy nơi đất khách với nỗi nhớ khôn nguôi về cái Tết xưa nơi quê nhà. “Tết ở đây thiếu gì vải lụa… nhưng cơn cớ làm sao mỗi khi có sự giao tiễn đôi mùa thì lòng lại hướng về quê cũ xa xưa…” – lời văn như một tiếng thở dài của người xa xứ, gợi nỗi cô đơn, lạc lõng giữa nơi phồn hoa nhưng thiếu vắng hồn cốt dân tộc. Dù có đủ mọi thứ cao sang, nhưng điều khiến con người ấm lòng lại là những kỷ niệm xưa cũ, những ngày Tết cùng vợ “đi mua đôi ba chậu cúc vàng, quất đỏ”, “mua mấy cánh mẫu đơn”, những chai rượu nếp, hộp trà Thiết Quan Âm… Những hình ảnh ấy không chỉ là vật phẩm mà còn là biểu tượng của tình thân, của sự sum vầy, của một nền văn hóa đậm đà bản sắc.

Đặc biệt, đoạn văn cuối như một bức tranh sinh hoạt ngày Tết đầy ắp tình cảm, sự tỉ mỉ, chu đáo trong việc chuẩn bị quà biếu bạn bè, người thân. Qua đó, ta thấy được không khí Tết xưa đầy ấm cúng, nghĩa tình và cũng không kém phần tinh tế. Việc lựa chọn từng món quà phù hợp cho từng người, sự suy nghĩ cân nhắc đến từng chi tiết nhỏ thể hiện sự sâu sắc trong tình người và trong lối sống. Câu chuyện của Vũ Bằng không đơn giản chỉ là hoài niệm cá nhân, mà còn là cách ông lưu giữ, truyền tải một phần hồn của Tết Việt cho thế hệ mai sau.

Xét về nghệ thuật, đoạn văn là một minh chứng cho phong cách văn chương đặc trưng của Vũ Bằng: giàu chất trữ tình, cảm xúc tinh tế, lối viết đậm đà chất thơ mà vẫn không mất đi sự mộc mạc, chân thành. Việc sử dụng nhiều hình ảnh gợi cảm, từ ngữ dân dã pha lẫn tài tình với ngôn ngữ bác học, cùng nhịp văn lúc dồn dập, lúc lắng đọng, tạo nên một dòng chảy cảm xúc vừa tha thiết, vừa day dứt, khó phai.

Tóm lại, đoạn trích là một bản hòa ca cảm động về tình yêu quê hương, về cái Tết cổ truyền của dân tộc. Qua đó, người đọc không chỉ cảm nhận được tâm hồn đa cảm, tinh tế của Vũ Bằng, mà còn như được sống lại với không khí Tết xưa – một cái Tết mang đầy hơi thở của tình thân, của cội nguồn và bản sắc dân tộc. Đó là một giá trị văn hóa quý báu mà mỗi người Việt Nam dù ở đâu, làm gì cũng cần gìn giữ và trân trọng.


Các câu hỏi tương tự
Đinh Hoàng Yến Nhi
Xem chi tiết
Đinh Hoàng Yến Nhi
Xem chi tiết
Đinh Hoàng Yến Nhi
Xem chi tiết
Đinh Hoàng Yến Nhi
Xem chi tiết
Đinh Hoàng Yến Nhi
Xem chi tiết
Đinh Hoàng Yến Nhi
Xem chi tiết
Đinh Hoàng Yến Nhi
Xem chi tiết
Đinh Hoàng Yến Nhi
Xem chi tiết
Đinh Hoàng Yến Nhi
Xem chi tiết
Đinh Hoàng Yến Nhi
Xem chi tiết