Khát vọng tự do tác phẩm : Khi con tu hú của nhà thơ Tố Hữu .Khi con Tu hú gọi bầy là khi mùa hè đến ,người tù ( nhân vật trữ tình ) càng cảm thấy ngột ngạt trong phòng giam chật hẹp ,càng thêm khát cháy bỏng cuộc sống tự do tưng bừng bên ngoài .Tên bài thơ đã gợi mở mạch cảm xúc của bài thơ .Tiếng chim Tu hú có giá trỊ hoán dụ ,liên tưởng báo hiệu một mùa hè rực rỡ của sự sống tưng bừng ,của trời cao lồng lộng tự do ,vì vậy tiếng chim đã tác động mạnh mẽ đến trái tim người tù .Tâm trạng người tù ngột ngạt vì sự chật chội ,tù túng ,nóng bức của phòng giam mùa hè .Uất hận vì sự vật thì tự do ,cả vật vô tri như cánh diều cũng được bay lượn tự do ,còn người chiến sĩ trẻ phải bị giam hãm ,bị biệt lập cô đơn " cháy ruột, mơ những ngày hoạt động ( quanh quẩn ) ,tất cả tâm trạng ấy dẫn đến ước muốn đập tan phòng của người tù .Tiếng chim kêu mở ra một mùa hè đầy sức sống ,đầy ắp sự tự do
Với Nhớ rừng của nhà thơ Thế Lữ .Đó là tâm trạng của nhân vật lãng mạn,đồng thời cũng là tâm trạng chung của người Việt Nam mất nước khi đó .Có thể nói ,bài thơ đã chạm tới huyệt thần kinh nhạy cảm nhất của người dân Viêt Nam đang sống trong cảnh nô lệ ,bi ' nhục nhằn tù hãm ",cũng ' gặm một nỗi căm hờn trong củi sắt " và tiếc thương khôn nguôi thời oanh liệt với những chiến công vẻ vang của dân tộc .Chính vì thế mà bài thơ được công chúng lúc bấy giờ say sưa đón nhận .Họ cảm thấy lời con hổ trong bài thơ chính là tiếng lòmg sâu kín của họ .Bài thơ kết thúc bằng tiếng lời nhắn gửi thống thiết của con hổ tới rừng thiêng .Đó là nỗi căm ghét u uất cảnh đời nô lệ của người dân Việt Nam nhưng vẫn thủy chung ,son sắt với giống nòi ,non nước .Bài thơ nói về con hổ nhưng cũng là nói đến con người nhắc người ta nhớ đến thuở oanh liệt ,chán ghét cảnh tù túng nô lệ .Nét tích cực ở bài thơ là: Tuy hình ảnh con hổ không có khí thế sổ lồng tung cánh ,hay ý chí mãnh liệt muốn đạp tan phòng mà ra mhư hình ảnh người tù cách mạng nhưng nó không chịu đầu hàng ,luôn nung nấu căm hờn ,luôn nhớ về quá khứ .Đó là nét tích cực khơi gợi trong lòng người đọc .
Hơn thế nữa qua bài "Ngắm trăng "của Hồ Chí Minh toát lên vẻ đẹp trong tâm hồn của Bác .Một tinh thần kì diệu .Bài thơ giúp ta có cái nhìn từ hai phía .Phía này là nhà tù đen tối ,là hiện thực tàn bạo ,còn ngoài kia là trăng thơ mộng ,là thế giới của cái đẹp ,bầu trời tự do .Là lãng mạn say người .Ở giữa là song sắt nhà tù trở nên bất lực ,vô nghĩa trước những tâm hồn tri âm ,tri kỉ tìm đến với nhau .Bài thơ vừa thể hiện tình yêu thiên nhiên sâu sắc mạnh mẽ vừa thể hiện tinh thần "thép "một phong thái ung dung ,vượt lên mọi hoàn cảnh bất chấp mọi hiểm nguy .
Qua ba tác phẩm hoàn cảnh mỗi khác nhưng tất cả đều nói lên sự tự do của con người Việt Nam mà không thể có cái gì có thể che đậy ,che kín được .
1.Mở bài:
Nhà văn, nhà thơ khi cầm bút sáng tác là gửi gắm vào tác phẩm tâm tư, tình cảm của mình. Vì thế khi đọc tác phẩm văn học ta thấy hiện lên chân dung tâm hồn người viết. Mỗi tác phẩm là một thế giới tâm hồn, tình cảm riêng. Nhưng đọc Nhớ rừng (Thế Lữ), Khi con tu hú (Tố Hữu) và Ngắm trăng (Hồ Chí Minh) ta cùng bắt gặp một niềm khao khát cuộc sống tự do mãnh liệt của con người.
2.Thân bài:
2.1. Niềm khao khát cuộc sống tự do mãnh liệt vừa được thể hiện trực tiếp vừa được thể hiện gián tiếp trong mỗi tác phẩm.
- Với Nhớ rừng của Thế Lữ khát vọng cuộc sống tự do ấy bày tỏ kín đáo mà mạnh mẽ qua tâm trạng con hổ nhớ rừng. Con hổ đang nằm trong cũi sắt vườn bách thú. Nó vô cùng cay đắng và căm uất:
Gậm một khối căm hờn trong cũi sắt
Ta nằm dài trông ngày tháng dần qua
đó là nỗi uất hận của hùm thiêng khi đã sa cơ phải chịu nhục nhằn, tù hãm, phải sống trong cảnh tầm thường, giả dối:
Hoa chăm, cỏ xén, lối phẳng, cây trồng
Dải nước đen giả suối chẳng thông dòng
Len dưới nách những mô gò thấp kém
Cảnh vườn bách thú tù túng đó phải chăng là cái thực tại xã hội đương thời được nhà thơ cảm nhận? Không thế sao bài thơ gây ấn tượng mạnh với độc giả đương thời đến thế ! Và Thế Lữ đâu hoài công nói về một con hổ. Con hổ sống trong cảnh giam cầm tù hãm đó nhớ tiếc đến đau đớn cả một thời oanh liệt đã qua:
Ta sống mãi trong tình thương nỗi nhớ
Thủa tung hoành hống hách những ngày xưa
Những ngày xưa là cả một quá khứ huy hoàng. Hổ sống tự do giữa giang sơn của mình với những gì lớn lao, phi thường, mãnh liệt và dữ dội, hoang vu: gió goà ngàn, nguồn hét núi, vờn bang âm thầm lá gai cỏ sắc. Trong quá khứ đã qua ấy, nó được tự do tận hưỡng cảnh sống khi thì thơ mộng: những đêm vàng bên bờ suối… đứng say mồi uống ánh trăng tan, khi thì rộn rã , tưng bừng bình minh cây xanh nắng gội, tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng, khi thì mãnh liệt và dữ dội: những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn, những chiều lênh láng máu sau rừng. Nhưng tất cả đã qua, đã không còn:
Than ôi! thời oanh liệt nay còn đâu!
Tiếng than đầy u uất, đầy đau đớn có phải chăng chỉ là của con hổ? Không! Nó chính là nỗi đau và tâm trạng hoài vọng của Thế Lữ, của những người yêu nước đương thời. Con hổ càng căm ghét cảnh sống thực tại, càng nhứ tiếc da diết quá khứ thì càng khat khao trở lại rừng xưa:
Ta đương theo giấc mộng ngàn to lớn
Để hồn ta phảng phất được gần ngươi
Hỡi cảnh rừng ghê gớm của ta ơi!
Khát vọng trở lại rừng xưa của con hổ cũng là kháy vọng về cuộc sống tự do của cả một lớp người, của cả một dân tọc trong những năm tháng nô lệ.
- Còn với bài thơ Khi con tu hú(Tố Hữu) khát vọng tự do được bày tỏ một cách trực tiếp với ý chí bất khuất: Quyết sống vì tự do! Quyết chết vì tự do!
Giữa chốn ngục tù của thực dân, người chiến sĩ cộng sản bỗng bắt gặp tiếng chim tu hú gọi bầy. Theo tiếng chim là cả một không gian hè với tiếng ve ngân trong vườn, với sân đầy bắp vàng, với bầu trời xanh cao rộng. Đặc biệt là hình ảnh đôi con diều sáo lộn nhào từng không – thật tự do, thật thoải mái với khát vọng tung hoành. Nó đối lập hoàn toàn với cảnh tù ngục. Vì vậy mà người chiến sĩ uất hận, sôi sục:
Ta nghe hè dậy bên lòng
Mà chân muốn đạp tan phòng hè ôi!
Ngột làm sao chết uất thôi
Con chim tu hú ngoài trời cứ kêu
Lòng uất hận dâng trào muốn phá tung chốn ngục tù chật chội, ngột ngạt để trở về cuộc sống tự do. Mùa hè đến với bao âm thanh dậy trong lòng, thôi thúc, giục giã người chiến sĩ cách mạng không cam chịu cảnh tù đày mà hãy đập tan phòng xà lim chật chội. Tiếng chim tu hú vừa gợi nhớ vừa thúc giục đến với tự do. Vì thế Khi con tu hú không chỉ tái hiện cảnh tù đày mà còn là bày tỏ lòng yêu đời, khát vọng tự do, muốn tung phá, giải phóng của nhà thơ.
- Đến với Ngắm trăng (Hồ Chí Minh) ta bất chợt chùng lòng bởi vẻ đẹp tâm hồn chiến sĩ thi sĩ. Cũng ở trong cảnh tù ngục mà ngục tù không giam được tâm hồn tha thiết yêu đời, yêu cuộc sống của Người. Đối lập với cảnh tù u ám là một đêm trăng đẹp:
Trong tù không rượu cũng không hoa
Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ
Rung động mãnh liệt trước cảnh trăng đẹp, người chiến sĩ cách mạng ung dung thưởng ngoạn trăng:
Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ
Trăng nhòm khe của ngắm nhà thơ
Kì diệu thay là sức mạnh tinh thần! Mặc nhà tù đen tối, mặn hiện thức bạo tàn, Bác vẫn đến với vầng trăng thơ mộng bởi đó là thế giới tự do, là vẻ đẹp của thiên nhiên đất trời.Phép đối và nhân hoá được sử dụng rất đắc dụng ở đây.Người tù hướng ra ngoài cửa sổ say ngắm vầng trăng sáng, vầng trăng vượt qua song sắt, qua khe cửa hẹp của nhà tù để ngắm nhà thơ.Nhà tù trở nên vô nghĩa lý trước những tri âm, tri kỷ. Đến với trăng là Bác đến với cái đẹp, với tự do. Vì thế mà cả bài thơ không có chữ tự do mà lại toát lên một tâm hồn rất tự do, luôn luôn làm chủ được mọi hoàn cảnh của Bác. Và thật chính xác khi khẳng định Ngắm trăng là một cuộc vượt ngục về tinh thần.
2.2. Có thể thấy rằng dù bằng cách này hay cách khác mỗi tác phẩm đều thể hiện niềm khao khát cuộc sống tự do mãnh liệt. ẩn sâu bên trong nó là gì nếu không phải là tình yêu quê hương đất nước sâu nặng. Những vần thơ tràn đầy cảm xúc lãng mạn trong Nhớ rừng đã khơi gợi lòng yêu nước thầm kín của những người dân mất nước thuở ấy. Còn trong bài thơ Khi con tu hú là sự bày tỏ lòng yêu cuộc sống qua niềm khao khát tự do cháy bỏng bằng những vần thơ lục bát giản dị, thiết tha của Tố Hữu. Với Tố Hữu được tự do là được cống hiến, được chiến đấu vì lý tưởng cao quý. Và Ngắm trăng- bài thơ tứ tuyệt giản dị, hàm súc là dẫn chứng thuyết phục nhất cho thấy tinh thần thép- phong thái ung dung lạc quan của Bác Hồ trước kẻ thù. Cội nguồn của phong thái đó là niềm tin vào tương lai cách mạng của Bác.
3. Kết bài:
Thật vậy, mỗi bài thơ là một vẻ đẹp của tâm hồn người viết. Dù nội dung và hình thức có khác nhau thì tựu trung lại vẫn là bày tỏ khát vọng của mình: khát vọng tự do. Nó là nỗi niềm khôn nguôi trong lòng người dân Việt Nam khi mất nước. Nó đã tạo nên sức mạnh để non sông Việt Nam thu về một mối, đất nước sạch bóng quân thù.