Ca dao dân ca là cây đàn muôn điệu rung lên những tiếng tơ lòng của người dân đất Việt. Những câu ca đằm thắm, trữ tình mang chở cả điệu tâm hồn và chứa chan những tình cảm thiết tha, sâu nặng, đặc biệt là tình cảm gia đình. Bởi vậy, có ý kiến cho rằng: “Ca dao dân ca đã thể hiện tình cảm gia đình sâu sắc”. Những lời hát ấy đã đi sâu vào tiềm thức mỗi người qua tiếng ru của bà, của mẹ và nhắc nhở chúng ta về công ơn trời biển của mẹ cha:
Công cha như núi ngất trời
Nghĩ mẹ như nước ở ngoài biển Đông
Núi cao biển rộng mênh mông
Cù lao chín chữ ghi lòng con ơi!
Bài ca dao như một lời nhắn nhủ nhẹ nhàng mà tha thiết. Phép so sánh được sử dụng liên tiếp khiến hai câu thơ vừa cụ thể, vừa gợi hình, sinh động. Công cha và nghĩa mẹ được ví với những hình ảnh thiên nhiên vĩnh hằng: núi ngất trời, nước biển Đông. Ơn cha to lớn không thể đo đếm còn tình mẹ thương con sâu nặng, đong đầy. Những lời thơ gợi nhắc về công ơn sinh thành dưỡng dục bao la vô tận của mẹ cha. Công ơn ấy được cụ thể hóa bằng “chín chữ”: (em xem chú thích và viết 9 chữ vào đây). Đồng thời, tác giả dân gian khuyên răn kẻ làm con phải có bổn phận chăm sóc và phụng dưỡng cha mẹ để đền đáp công ơn ấy. Những lời ca dao thấm đượm nghĩa tình như ru hồn người vào thế giới của đạo lý, yêu thương.
Không những nhắn nhủ con người về công ơn cha mẹ, ca dao dân ca còn thể hiện tình cảm nhớ thương quê mẹ của người con gái xa:
Chiều chiều ra đứng ngõ sau
Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều
Câu ca mở ra một âm điệu trầm buồn sâu lắng với hai từ “chiều chiều”. Thời khắc ấy gợi cái tàn lụi của một ngày và cũng gợi cảm giác sum họp gia đình. Ấy là quãng thời gian của buồn, của nhớ và bâng khuâng. Những lời hát của người con gái lấy chồng xa hướng về quê mẹ như thấm đẫm nỗi buồn xa xót ấy. Hai từ “ngõ sau” gợi một không gian khuất nẻo – nơi người con gái có thể bày tỏ nỗi lòng. Cả thời gian và không gian ấy như đã nói lên tâm trạng con người đang mong nhớ thiết tha. Hai chữ “chiều chiều” mở đầu hô ứng với hai chữ “chín chiều” kết thúc bài ca dao tạo nên hiệu ứng lặp đi lặp lại một nỗi long xót xa, thấm thía của người con gái khi hướng về quê mẹ xa xôi.
Bên cạnh tình cảm cha mẹ – con cái, ca dao còn là những lời nhắn nhủ cảm động về tình cảm ông bà và cháu con:
“Ngó lên nuộc lạt mái nhà
Bao nhiêu nuộc lạt nhớ ông bà bấy nhiêu”
Nuộc lạt – một hình ảnh quen thuộc trên những mái nhà tranh của làng quê Việt Nam đã được đưa vào câu ca dao một cách rất tự nhiên, giản dị và gần gũi. Biện pháp so sánh bao nhiêu – bấy nhiêu đã thể hiện tình cảm nhớ thương, sự gắn bó bền chặt, ruột thịt của cháu con với ông bà. Âm điệu lời thơ tha thiết thể hiện sự kính trọng biết ơn!
Và, có lẽ, những người thân, người lớn trong nhà đã khuyên bào con cháu giữ chặt tình anh em:
Anh em nào phải người xa
Cùng chung bác mẹ một nhà cùng thân
Yêu nhau như thể tay chân
Anh em hòa thuận hai thân vui vầy
Một lần nữa lối ví von so sánh lại được sử dụng thành công trong hai câu ca dao. Tình cảm anh em gắn bó bền chặt không thể tách rời như tay với chân. Sự hòa thuận của anh em chính là niềm vui của cha mẹ gia đình. Bài ca dao là lời nhắc nhở nhẹ nhàng mà sâu sắc về tình cảm ruột thịt, anh em.
Với âm điệu thiết tha, sâu lắng cùng lối ví von so sánh đặc trưng, những câu thơ lục bát đã thể hiện tình cảm gia đình sâu sắc và thấm thía.
Nhắc nhở nhẹ nhàng mà không khô khan, khuyên nhủ mà không giáo huấn, ca dao chính là tiếng lòng mang chở cả tư tưởng, triết lý đạo đức của nhân dân. Nó đã trở thành viên ngọc quý trong kho tàng văn học Việt Nam.
Ca dao là tiếng lòng thổn thức, là hơi thở của người dân Việt Nam. Những làn điệu dân ca, ca dao đã hóa thân thành nhừng lời tự tình dân tộc. Ca dao có nhiều mảng đề tài nhưng nổi bật nhất vẫn là những câu nói về tình gia đình đằm thắm và tình làng xóm, quê hương, đất nước tha thiết.
Mảng ca dao viết về gia đình có số lượng khá phong phú. Nó tái hiện lại được bức tranh sinh hoạt và những môi quan hệ gia đình. Sinh hoạt và tình cảm gia đình luôn gần gũi, thiêng liêng. Bao giờ con cháu cũng luôn tưởng nhớ đến tổ tiên trước nhất: Con người có tổ có tông, Như cây có cội, như sông có nguồn. Sau đó, con cháu bày tỏ lòng biết ơn công lao của ông bà cha mẹ: Ngó lên nuộc lạt mái nhà Đếm hao nhiễu nuộc, nhớ ông bà bấy nhiễu. và: Ơn cha nặng lắm ai ơi, Nghĩa mẹ băng trời, chín tháng cưu mang. Tình nghĩa ấy luôn vĩnh cửu, cao như núi, dài như sông, rộng mênh mông như biển Thái Bình: Công cha như núi Thái Sơn Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra. Lớp lớp con cháu rất thông cảm với nỗi vất vả của ông bà, cha mẹ: Non xanh bao tuổi mà già Bởi vì sương tuyết hóa ra bạc đầu. Mặt khác dân tộc ta rất đề cao tinh thần đoàn kết. Gia đình là tế bào xã hội. Anh em trong gia đình phải biết đoàn kết, thương yêu nhau thì xã hội mới tồn tại và phát triển: Anh em nào phải người xa, Cùng chung bác mẹ, một nhà cùng thân. Yêu nhau như thể tay chân, Anh em hòa thuận, hai thân vui vầy. Vì tình cảm anh em đậm đà như máu thịt nên lúc hoạn nạn đói rét phải hết lòng giúp nhau: Anh em như chân với tay Rách lành đùm bọc, dở hay đỡ đần. Con cháu lớn lên thì phải lấy vợ hoặc lấy chồng. Bao giờ ca dao cũng dạy mọi người phải biết quý trọng tình nghĩa hơn vật chất: Chồng em áo rách em thương Chồng người áo gấm, xông hương mặc người. Phải chăng lòng thủy chung son sắt là nguồn gốc hạnh phúc của gia đình? Thế nên sống trong cảnh nghèo khổ, nhiều đôi vợ chồng trẻ vẫn vui vẻ, đồng lòng: Râu tôm nấu với ruột bầu, Chồng chan, vợ húp, gật đầu khen ngon. Họ thường động viên nhau tích cực lao động để đổi đời. Đây là một ước mơ, khát vọng chân chính: Rủ nhau đi cấy đi cày Bây giờ khó nhọc có ngày phong lưu Bên cạnh những câu ca dao viết về tình cảm gia đình là mảng ca dao nói về tình làng xóm, lòng yêu quê hương đất nước thiết tha. Hình ảnh làng xóm hiện lên đẹp tươi, người người chăm lo làm việc: Làng ta phong cảnh hữu tình Dân cư giang khúc như hình con long Nhờ trời hạ kế sang đông Làng nghề cày cấy vun trồng tốt tươi. Chính vì thế anh trai làng xa quê hương đã mang theo nỗi nhớ thương da diết: Anh đi anh nhớ quê nhà Nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tương. Nhớ ai dãi nắng dầm sương Nhớ ai tát nước bên đường hôm nao. Và “lòng yêu nhà, yêu làng xóm trở nên lòng yêu Tổ quốc”. Yêu nước là giá trị truyền thống nổi bật của con người Việt Nam. Con người của dân tộc nào cũng có lòng yêu nước, nhưng lòng yêu nước của dân tộc Việt Nam nảy nở trong hoàn cảnh đặc biệt. Thiên nhiên Việt Nam có nhiều ưu đãi nhưng cũng rất khắc nghiệt với những năm hạn hán và bão lụt. Rèn luyện trong bôì cảnh ấy họ phải gắn bó với nhau để chống chọi với thử thách khắc nghiệt của thiên nhiên nên tình cảm ngày càng keo sơn. Hơn nữa, lòng yêu nước của con người Việt Nam còn được rèn luyện trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm. Đất nước Việt Nam từ ngày lập quốc luôn gặp cảnh giặc giã liên miên: từ phương Bắc đến phương Tây. Con người Việt Nam lúc bình thường thì âm thầm lặng lẽ, nhưng khi có giặc ngoại xâm thì mạnh mẽ đến lạ thường. Tình yêu quê hương đất nước là chủ đề chính của ca dao dân ca trữ tình. Nó lan tỏa hồn nhiên, bình dị mà gợi lên, đánh thức niềm tự hào dân tộc sâu sắc. Tình yêu quê hương đất nước muôn hình muôn vẻ. Đó là tình yêu, lòng tự hào về thiên nhiên, sản vật của quê hương, là sự gắn bó và tự hào về truyền thông nơi mình sinh ra và lớn lên. Lạng Sơn hiện lên trong ca dao thật đáng yêu: Đồng Đăng có phố Kỳ Lừa Có nàng Tô Thị, có chùa Tam Thanh. Thăng Long, kinh đô ngày xưa, có: Phố giăng mắc cửi, đường quanh bàn cờ. Hà Nội với vẻ đẹp cổ kính của bốn nghìn năm văn hiến: Gió dưa cành trúc la đà Tiếng chuông Trấn Vũ canh gà Thọ Xương Mịt mù khói tỏa ngàn sương Nhịp chày Yên Thế, mặt gương Tây Hồ. Xứ Nghệ đẹp từ con đường làng quanh co đến núi non hùng vĩ: Đường vô xứ Nghệ quanh quanh Non xanh nước biếc như tranh họa đồ. Miền Nam thân yêu của Tổ quốc đẹp bởi những cánh đồng mênh mông, sóng lúa nhấp nhô đến tận trời xa; đẹp bởi hệ thống kênh rạch, ao hồ chằng chịt, lắm cá tôm: Đồng Tháp Mười cò bay thẳng cánh Nước Tháp Mười lấp lánh cá tôm. Tình yêu quê hương đất nước trong ca dao thường được giới hạn trong phạm vi của một làng vì tầm mắt của người dân ngày xưa bị bó hẹp bởi lũy tre làng, bởi phương thức sản xuất tiểu nông. Trong ca dao chúng ta khó có thể thấy được một tình yêu bao quát cả đất nước như thơ Nguyễn Đình Thi: Việt Nam đất nước ta ơi Mênh mông biển lúa, đâu trời đẹp hơn Cánh cò bay lả rập rờn Mây mờ che đỉnh Trường Sơn sớm chiều Quê hương biết mấy thân yêu... Đến thời cận đại, ca dao cố vươn tới cảm xúc này nhưng những cảm xúc bao trùm lớn lao như vậy rất hi hữu: Thuyền ai thấp thoảng bến sông Đưa câu mái đẩy chạnh lòng nước non. Không đợi con thuyền đến gần, chỉ dõi tầm mắt qua bên kia sông, nhìn cánh buồm khi ẩn khi hiện, nghe điệu hò thân thương là lòng yêu nước lại trào dâng mãnh liệt thiết tha. Khi đất nước bị chia cắt, ca dao kêu gọi mọi người cùng quê hương, đất nước hãy yêu thương, đùm bọc, cưu mang nhau: Bầu ơi thương lấy bí cùng Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn. và: Nhiễu điều phủ lấy giá gương Người trong một nước phải thương nhau cùng. Tóm lại, những câu ca dao viết về tình cảm gia đình, tình yêu làng xóm, quê hương, đất nước góp phần làm phong phú thêm kho tàng văn học dân gian Việt Nam nói riêng và văn học Việt Nam nói chung. Đọc những câu ca dao tuyệt vời, bất tử đó, chúng ta thấy tâm hồn mình sảng khoái, minh mẫn làm sao!
Ca dao là tiếng lòng thổn thức, là hơi thở của người dân Việt Nam. Những làn điệu dân ca, ca dao đã hóa thân thành nhừng lời tự tình dân tộc. Ca dao có nhiều mảng đề tài nhưng nổi bật nhất vẫn là những câu nói về tình gia đình đằm thắm và tình làng xóm, quê hương, đất nước tha thiết.
Mảng ca dao viết về gia đình có số lượng khá phong phú. Nó tái hiện lại được bức tranh sinh hoạt và những môi quan hệ gia đình. Sinh hoạt và tình cảm gia đình luôn gần gũi, thiêng liêng. Bao giờ con cháu cũng luôn tưởng nhớ đến tổ tiên trước nhất: Con người có tổ có tông, Như cây có cội, như sông có nguồn. Sau đó, con cháu bày tỏ lòng biết ơn công lao của ông bà cha mẹ: Ngó lên nuộc lạt mái nhà Đếm hao nhiễu nuộc, nhớ ông bà bấy nhiễu. và: Ơn cha nặng lắm ai ơi, Nghĩa mẹ băng trời, chín tháng cưu mang. Tình nghĩa ấy luôn vĩnh cửu, cao như núi, dài như sông, rộng mênh mông như biển Thái Bình: Công cha như núi Thái Sơn Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra. Lớp lớp con cháu rất thông cảm với nỗi vất vả của ông bà, cha mẹ: Non xanh bao tuổi mà già Bởi vì sương tuyết hóa ra bạc đầu. Mặt khác dân tộc ta rất đề cao tinh thần đoàn kết. Gia đình là tế bào xã hội. Anh em trong gia đình phải biết đoàn kết, thương yêu nhau thì xã hội mới tồn tại và phát triển: Anh em nào phải người xa, Cùng chung bác mẹ, một nhà cùng thân. Yêu nhau như thể tay chân, Anh em hòa thuận, hai thân vui vầy. Vì tình cảm anh em đậm đà như máu thịt nên lúc hoạn nạn đói rét phải hết lòng giúp nhau: Anh em như chân với tay Rách lành đùm bọc, dở hay đỡ đần. Con cháu lớn lên thì phải lấy vợ hoặc lấy chồng. Bao giờ ca dao cũng dạy mọi người phải biết quý trọng tình nghĩa hơn vật chất: Chồng em áo rách em thương Chồng người áo gấm, xông hương mặc người. Phải chăng lòng thủy chung son sắt là nguồn gốc hạnh phúc của gia đình? Thế nên sống trong cảnh nghèo khổ, nhiều đôi vợ chồng trẻ vẫn vui vẻ, đồng lòng: Râu tôm nấu với ruột bầu, Chồng chan, vợ húp, gật đầu khen ngon. Họ thường động viên nhau tích cực lao động để đổi đời. Đây là một ước mơ, khát vọng chân chính: Rủ nhau đi cấy đi cày Bây giờ khó nhọc có ngày phong lưu Bên cạnh những câu ca dao viết về tình cảm gia đình là mảng ca dao nói về tình làng xóm, lòng yêu quê hương đất nước thiết tha. Hình ảnh làng xóm hiện lên đẹp tươi, người người chăm lo làm việc: Làng ta phong cảnh hữu tình Dân cư giang khúc như hình con long Nhờ trời hạ kế sang đông Làng nghề cày cấy vun trồng tốt tươi. Chính vì thế anh trai làng xa quê hương đã mang theo nỗi nhớ thương da diết: Anh đi anh nhớ quê nhà Nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tương. Nhớ ai dãi nắng dầm sương Nhớ ai tát nước bên đường hôm nao. Và “lòng yêu nhà, yêu làng xóm trở nên lòng yêu Tổ quốc”. Yêu nước là giá trị truyền thống nổi bật của con người Việt Nam. Con người của dân tộc nào cũng có lòng yêu nước, nhưng lòng yêu nước của dân tộc Việt Nam nảy nở trong hoàn cảnh đặc biệt. Thiên nhiên Việt Nam có nhiều ưu đãi nhưng cũng rất khắc nghiệt với những năm hạn hán và bão lụt. Rèn luyện trong bôì cảnh ấy họ phải gắn bó với nhau để chống chọi với thử thách khắc nghiệt của thiên nhiên nên tình cảm ngày càng keo sơn. Hơn nữa, lòng yêu nước của con người Việt Nam còn được rèn luyện trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm. Đất nước Việt Nam từ ngày lập quốc luôn gặp cảnh giặc giã liên miên: từ phương Bắc đến phương Tây. Con người Việt Nam lúc bình thường thì âm thầm lặng lẽ, nhưng khi có giặc ngoại xâm thì mạnh mẽ đến lạ thường. Tình yêu quê hương đất nước là chủ đề chính của ca dao dân ca trữ tình. Nó lan tỏa hồn nhiên, bình dị mà gợi lên, đánh thức niềm tự hào dân tộc sâu sắc. Tình yêu quê hương đất nước muôn hình muôn vẻ. Đó là tình yêu, lòng tự hào về thiên nhiên, sản vật của quê hương, là sự gắn bó và tự hào về truyền thông nơi mình sinh ra và lớn lên. Lạng Sơn hiện lên trong ca dao thật đáng yêu: Đồng Đăng có phố Kỳ Lừa Có nàng Tô Thị, có chùa Tam Thanh. Thăng Long, kinh đô ngày xưa, có: Phố giăng mắc cửi, đường quanh bàn cờ. Hà Nội với vẻ đẹp cổ kính của bốn nghìn năm văn hiến: Gió dưa cành trúc la đà Tiếng chuông Trấn Vũ canh gà Thọ Xương Mịt mù khói tỏa ngàn sương Nhịp chày Yên Thế, mặt gương Tây Hồ. Xứ Nghệ đẹp từ con đường làng quanh co đến núi non hùng vĩ: Đường vô xứ Nghệ quanh quanh Non xanh nước biếc như tranh họa đồ. Miền Nam thân yêu của Tổ quốc đẹp bởi những cánh đồng mênh mông, sóng lúa nhấp nhô đến tận trời xa; đẹp bởi hệ thống kênh rạch, ao hồ chằng chịt, lắm cá tôm: Đồng Tháp Mười cò bay thẳng cánh Nước Tháp Mười lấp lánh cá tôm. Tình yêu quê hương đất nước trong ca dao thường được giới hạn trong phạm vi của một làng vì tầm mắt của người dân ngày xưa bị bó hẹp bởi lũy tre làng, bởi phương thức sản xuất tiểu nông. Trong ca dao chúng ta khó có thể thấy được một tình yêu bao quát cả đất nước như thơ Nguyễn Đình Thi: Việt Nam đất nước ta ơi Mênh mông biển lúa, đâu trời đẹp hơn Cánh cò bay lả rập rờn Mây mờ che đỉnh Trường Sơn sớm chiều Quê hương biết mấy thân yêu... Đến thời cận đại, ca dao cố vươn tới cảm xúc này nhưng những cảm xúc bao trùm lớn lao như vậy rất hi hữu: Thuyền ai thấp thoảng bến sông Đưa câu mái đẩy chạnh lòng nước non. Không đợi con thuyền đến gần, chỉ dõi tầm mắt qua bên kia sông, nhìn cánh buồm khi ẩn khi hiện, nghe điệu hò thân thương là lòng yêu nước lại trào dâng mãnh liệt thiết tha. Khi đất nước bị chia cắt, ca dao kêu gọi mọi người cùng quê hương, đất nước hãy yêu thương, đùm bọc, cưu mang nhau: Bầu ơi thương lấy bí cùng Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn. và: Nhiễu điều phủ lấy giá gương Người trong một nước phải thương nhau cùng. Tóm lại, những câu ca dao viết về tình cảm gia đình, tình yêu làng xóm, quê hương, đất nước góp phần làm phong phú thêm kho tàng văn học dân gian Việt Nam nói riêng và văn học Việt Nam nói chung. Đọc những câu ca dao tuyệt vời, bất tử đó, chúng ta thấy tâm hồn mình sảng khoái, minh mẫn làm sao!
Ca dao dân ca là cây đàn muôn điệu rung lên những tiếng tơ lòng của người dân đất Việt. Những câu ca đằm thắm, trữ tình mang chở cả điệu tâm hồn và chứa chan những tình cảm thiết tha, sâu nặng, đặc biệt là tình cảm gia đình. Bởi vậy, có ý kiến cho rằng: “Ca dao dân ca đã thể hiện tình cảm gia đình sâu sắc”. Những lời hát ấy đã đi sâu vào tiềm thức mỗi người qua tiếng ru của bà, của mẹ và nhắc nhở chúng ta về công ơn trời biển của mẹ cha:
Công cha như núi ngất trời
Nghĩ mẹ như nước ở ngoài biển Đông
Núi cao biển rộng mênh mông
Cù lao chín chữ ghi lòng con ơi!
Bài ca dao như một lời nhắn nhủ nhẹ nhàng mà tha thiết. Phép so sánh được sử dụng liên tiếp khiến hai câu thơ vừa cụ thể, vừa gợi hình, sinh động. Công cha và nghĩa mẹ được ví với những hình ảnh thiên nhiên vĩnh hằng: núi ngất trời, nước biển Đông. Ơn cha to lớn không thể đo đếm còn tình mẹ thương con sâu nặng, đong đầy. Những lời thơ gợi nhắc về công ơn sinh thành dưỡng dục bao la vô tận của mẹ cha. Công ơn ấy được cụ thể hóa bằng “chín chữ”: (em xem chú thích và viết 9 chữ vào đây). Đồng thời, tác giả dân gian khuyên răn kẻ làm con phải có bổn phận chăm sóc và phụng dưỡng cha mẹ để đền đáp công ơn ấy. Những lời ca dao thấm đượm nghĩa tình như ru hồn người vào thế giới của đạo lý, yêu thương.
Không những nhắn nhủ con người về công ơn cha mẹ, ca dao dân ca còn thể hiện tình cảm nhớ thương quê mẹ của người con gái xa:
Chiều chiều ra đứng ngõ sau
Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều
Câu ca mở ra một âm điệu trầm buồn sâu lắng với hai từ “chiều chiều”. Thời khắc ấy gợi cái tàn lụi của một ngày và cũng gợi cảm giác sum họp gia đình. Ấy là quãng thời gian của buồn, của nhớ và bâng khuâng. Những lời hát của người con gái lấy chồng xa hướng về quê mẹ như thấm đẫm nỗi buồn xa xót ấy. Hai từ “ngõ sau” gợi một không gian khuất nẻo – nơi người con gái có thể bày tỏ nỗi lòng. Cả thời gian và không gian ấy như đã nói lên tâm trạng con người đang mong nhớ thiết tha. Hai chữ “chiều chiều” mở đầu hô ứng với hai chữ “chín chiều” kết thúc bài ca dao tạo nên hiệu ứng lặp đi lặp lại một nỗi long xót xa, thấm thía của người con gái khi hướng về quê mẹ xa xôi.
Bên cạnh tình cảm cha mẹ – con cái, ca dao còn là những lời nhắn nhủ cảm động về tình cảm ông bà và cháu con:
“Ngó lên nuộc lạt mái nhà
Bao nhiêu nuộc lạt nhớ ông bà bấy nhiêu”
Nuộc lạt – một hình ảnh quen thuộc trên những mái nhà tranh của làng quê Việt Nam đã được đưa vào câu ca dao một cách rất tự nhiên, giản dị và gần gũi. Biện pháp so sánh bao nhiêu – bấy nhiêu đã thể hiện tình cảm nhớ thương, sự gắn bó bền chặt, ruột thịt của cháu con với ông bà. Âm điệu lời thơ tha thiết thể hiện sự kính trọng biết ơn!
Và, có lẽ, những người thân, người lớn trong nhà đã khuyên bào con cháu giữ chặt tình anh em:
Anh em nào phải người xa
Cùng chung bác mẹ một nhà cùng thân
Yêu nhau như thể tay chân
Anh em hòa thuận hai thân vui vầy
Một lần nữa lối ví von so sánh lại được sử dụng thành công trong hai câu ca dao. Tình cảm anh em gắn bó bền chặt không thể tách rời như tay với chân. Sự hòa thuận của anh em chính là niềm vui của cha mẹ gia đình. Bài ca dao là lời nhắc nhở nhẹ nhàng mà sâu sắc về tình cảm ruột thịt, anh em.
Với âm điệu thiết tha, sâu lắng cùng lối ví von so sánh đặc trưng, những câu thơ lục bát đã thể hiện tình cảm gia đình sâu sắc và thấm thía.
Nhắc nhở nhẹ nhàng mà không khô khan, khuyên nhủ mà không giáo huấn, ca dao chính là tiếng lòng mang chở cả tư tưởng, triết lý đạo đức của nhân dân. Nó đã trở thành viên ngọc quý trong kho tàng văn học Việt Nam.
Những lời hát ấy đã đi sâu vào tiềm thức mỗi người qua tiếng ru của bà, của mẹ và nhắc nhở chúng ta về công ơn trời biển của mẹ cha:
Công cha như núi ngất trời
Nghĩ mẹ như nước ở ngoài biển Đông
Núi cao biển rộng mênh mông
Cù lao chín chữ ghi lòng con ơi!
Bài ca dao như một lời nhắn nhủ nhẹ nhàng mà tha thiết. Phép so sánh được sử dụng liên tiếp khiến hai câu thơ vừa cụ thể, vừa gợi hình, sinh động. Công cha và nghĩa mẹ được ví với những hình ảnh thiên nhiên vĩnh hằng: núi ngất trời, nước biển Đông. Ơn cha to lớn không thể đo đếm còn tình mẹ thương con sâu nặng, đong đầy. Những lời thơ gợi nhắc về công ơn sinh thành dưỡng dục bao la vô tận của mẹ cha. Công ơn ấy được cụ thể hóa bằng “chin chữ”: (em xem chú thích và viết 9 chữ vào đây). Đồng thời, tác giả dân gian khuyên răn kẻ làm con phải có bổn phận chăm sóc và phụng dưỡng cha mẹ để đền đáp công ơn ấy. Những lời ca dao thấm đượm nghĩa tình như ru hồn người vào thế giới của đạo lý, yêu thương.
Không những nhắn nhủ con người về công ơn cha mẹ, ca dao dân ca còn thể hiện tình cảm nhớ thương quê mẹ của người con gái xa:
Chiều chiều ra đứng ngõ sau
Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều
Câu ca mở ra một âm điệu trầm buồn sâu lắng với hai từ “chiều chiều”. Thời khắc ấy gợi cái tàn lụi của một ngày và cũng gợi cảm giác sum họp gia đình. Ấy là quãng thời gian của buồn, của nhớ và bâng khuâng. Những lời hát của người con gái lấy chồng xa hướng về quê mẹ như thấm đẫm nỗi buồn xa xót ấy. Hai từ “ngõ sau” gợi một không gian khuất nẻo – nơi người con gái có thể bày tỏ nỗi long. Cả thời gian và không gian ấy như đã nói lên tâm trạng con người đang mong nhớ thiết tha. Hai chữ “chiều chiều” mở đầu hô ứng với hai chữ “chin chiều” kết thúc bài ca dao tạo nên hiệu ứng lặp đi lặp lại một nỗi long xót xa, thấm thía của người con gái khi hướng về quê mẹ xa xôi.
Bên cạnh tình cảm cha mẹ – con cái, ca dao còn là những lời nhắn nhủ cảm động về tình cảm ông bà và cháu con:
“Ngó lên nuộc lạt mái nhà
Bao nhiêu nuộc lạt nhớ ông bà bấy nhiêu”
Nuộc lạt – một hình ảnh quen thuộc trên những mái nhà tranh của làng quê Việ Nam đã được đưa vào câu ca dao một cách rất tự nhiên, giản dị và gần gũi. Biện pháp so sánh bao nhiêu – bấy nhiêu đã thể hiện tình cảm nhớ thương, sự gắn bó bền chặt, ruột thịt của cháu con với ông bà. Âm điệu lời thơ tha thiết thể hiện sự kính trọng biết ơn!
Và, có lẽ, những người thân, người lớn trong nhà đã khuyên bào con cháu giữ chặt tình anh em:
Anh em nào phải người xa
Cùng chung bác mẹ một nhà cùng thân
Yêu nhau như thể tay chân
Anh em hòa thuận hai thân vui vầy
Một lần nữa lối ví von so sánh lại được sử dụng thành công trong hai câu ca dao. Tình cảm anh em gắn bó bền chặt không thể tách rời như tay với chân. Sự hòa thuận của an hem chính là niềm vui của cha mẹ gia đình. Bài ca dao là lời nhắc nhở nhẹ nhàng mà sâu sắc về tình cảm ruột thịt, anh em.
Với âm điệu thiết tha, sâu lắng cùng lối ví von so sánh đặc trưng, những câu thơ lục bát đã thể hiện tình cảm gia đình sâu sắc và thấm thía.
Nhắc nhở nhẹ nhàng mà không khô khan, khuyên nhủ mà không giáo huấn, ca dao chính là tiếng lòng mang chở cả tư tưởng, triết lý đạo đức của nhân dân. Nó đã trở thành viên ngọc quý trong kho tàng văn học Việt Nam.
Nếu thấy hay thì like nhá
Ca dao dân ca là cây đàn muôn điệu rung lên những tiếng tơ lòng của người dân đất Việt. Những câu ca đằm thắm, trữ tình mang chở cả điệu tâm hồn và chứa chan những tình cảm thiết tha, sâu nặng, đặc biệt là tình cảm gia đình. Bởi vậy, có ý kiến cho rằng: “Ca dao dân ca đã thể hiện tình cảm gia đình sâu sắc”. Những lời hát ấy đã đi sâu vào tiềm thức mỗi người qua tiếng ru của bà, của mẹ và nhắc nhở chúng ta về công ơn trời biển của mẹ cha:
Công cha như núi ngất trời
Nghĩ mẹ như nước ở ngoài biển Đông
Núi cao biển rộng mênh mông
Cù lao chín chữ ghi lòng con ơi!
Bài ca dao như một lời nhắn nhủ nhẹ nhàng mà tha thiết. Phép so sánh được sử dụng liên tiếp khiến hai câu thơ vừa cụ thể, vừa gợi hình, sinh động. Công cha và nghĩa mẹ được ví với những hình ảnh thiên nhiên vĩnh hằng: núi ngất trời, nước biển Đông. Ơn cha to lớn không thể đo đếm còn tình mẹ thương con sâu nặng, đong đầy. Những lời thơ gợi nhắc về công ơn sinh thành dưỡng dục bao la vô tận của mẹ cha. Công ơn ấy được cụ thể hóa bằng “chín chữ”: (em xem chú thích và viết 9 chữ vào đây). Đồng thời, tác giả dân gian khuyên răn kẻ làm con phải có bổn phận chăm sóc và phụng dưỡng cha mẹ để đền đáp công ơn ấy. Những lời ca dao thấm đượm nghĩa tình như ru hồn người vào thế giới của đạo lý, yêu thương.
Không những nhắn nhủ con người về công ơn cha mẹ, ca dao dân ca còn thể hiện tình cảm nhớ thương quê mẹ của người con gái xa:
Chiều chiều ra đứng ngõ sau
Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều
Câu ca mở ra một âm điệu trầm buồn sâu lắng với hai từ “chiều chiều”. Thời khắc ấy gợi cái tàn lụi của một ngày và cũng gợi cảm giác sum họp gia đình. Ấy là quãng thời gian của buồn, của nhớ và bâng khuâng. Những lời hát của người con gái lấy chồng xa hướng về quê mẹ như thấm đẫm nỗi buồn xa xót ấy. Hai từ “ngõ sau” gợi một không gian khuất nẻo – nơi người con gái có thể bày tỏ nỗi lòng. Cả thời gian và không gian ấy như đã nói lên tâm trạng con người đang mong nhớ thiết tha. Hai chữ “chiều chiều” mở đầu hô ứng với hai chữ “chín chiều” kết thúc bài ca dao tạo nên hiệu ứng lặp đi lặp lại một nỗi long xót xa, thấm thía của người con gái khi hướng về quê mẹ xa xôi.
Bên cạnh tình cảm cha mẹ – con cái, ca dao còn là những lời nhắn nhủ cảm động về tình cảm ông bà và cháu con:
“Ngó lên nuộc lạt mái nhà
Bao nhiêu nuộc lạt nhớ ông bà bấy nhiêu”
Nuộc lạt – một hình ảnh quen thuộc trên những mái nhà tranh của làng quê Việt Nam đã được đưa vào câu ca dao một cách rất tự nhiên, giản dị và gần gũi. Biện pháp so sánh bao nhiêu – bấy nhiêu đã thể hiện tình cảm nhớ thương, sự gắn bó bền chặt, ruột thịt của cháu con với ông bà. Âm điệu lời thơ tha thiết thể hiện sự kính trọng biết ơn!
Và, có lẽ, những người thân, người lớn trong nhà đã khuyên bào con cháu giữ chặt tình anh em:
Anh em nào phải người xa
Cùng chung bác mẹ một nhà cùng thân
Yêu nhau như thể tay chân
Anh em hòa thuận hai thân vui vầy
Một lần nữa lối ví von so sánh lại được sử dụng thành công trong hai câu ca dao. Tình cảm anh em gắn bó bền chặt không thể tách rời như tay với chân. Sự hòa thuận của anh em chính là niềm vui của cha mẹ gia đình. Bài ca dao là lời nhắc nhở nhẹ nhàng mà sâu sắc về tình cảm ruột thịt, anh em
Với âm điệu thiết tha, sâu lắng cùng lối ví von so sánh đặc trưng, những câu thơ lục bát đã thể hiện tình cảm gia đình sâu sắc và thấm thía.
Nhắc nhở nhẹ nhàng mà không khô khan, khuyên nhủ mà không giáo huấn, ca dao chính là tiếng lòng mang chở cả tư tưởng, triết lý đạo đức của nhân dân. Nó đã trở thành viên ngọc quý trong kho tàng văn học Việt Nam.
Ca dao dân ca là cây đàn muôn điệu rung lên những tiếng tơ lòng của người dân đất Việt. Những câu ca đằm thắm, trữ tình mang chở cả điệu tâm hồn và chứa chan những tình cảm thiết tha, sâu năng, đặc biệt là tình cảm gia đình. Bởi vậy, có ý kiến cho rằng: “Ca dao dân ca đã thể hiện tình cảm gia đình sâu sắc”.
Những lời hát ấy đã đi sâu vào tiềm thức mỗi người qua tiếng ru của bà, của mẹ và nhắc nhở chúng ta về công ơn trời biển của mẹ cha:
Công cha như núi ngất trời
Nghĩ mẹ như nước ở ngoài biển Đông
Núi cao biển rộng mênh mông
Cù lao chín chữ ghi lòng con ơi!
Bài ca dao như một lời nhắn nhủ nhẹ nhàng mà tha thiết. Phép so sánh được sử dụng liên tiếp khiến hai câu thơ vừa cụ thể, vừa gợi hình, sinh động. Công cha và nghĩa mẹ được ví với những hình ảnh thiên nhiên vĩnh hằng: núi ngất trời, nước biển Đông. Ơn cha to lớn không thể đo đếm còn tình mẹ thương con sâu nặng, đong đầy. Những lời thơ gợi nhắc về công ơn sinh thành dưỡng dục bao la vô tận của mẹ cha. Công ơn ấy được cụ thể hóa bằng “chin chữ”: (em xem chú thích và viết 9 chữ vào đây). Đồng thời, tác giả dân gian khuyên răn kẻ làm con phải có bổn phận chăm sóc và phụng dưỡng cha mẹ để đền đáp công ơn ấy. Những lời ca dao thấm đượm nghĩa tình như ru hồn người vào thế giới của đạo lý, yêu thương.
Không những nhắn nhủ con người về công ơn cha mẹ, ca dao dân ca còn thể hiện tình cảm nhớ thương quê mẹ của người con gái xa:
Chiều chiều ra đứng ngõ sau
Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều
Câu ca mở ra một âm điệu trầm buồn sâu lắng với hai từ “chiều chiều”. Thời khắc ấy gợi cái tàn lụi của một ngày và cũng gợi cảm giác sum họp gia đình. Ấy là quãng thời gian của buồn, của nhớ và bâng khuâng. Những lời hát của người con gái lấy chồng xa hướng về quê mẹ như thấm đẫm nỗi buồn xa xót ấy. Hai từ “ngõ sau” gợi một không gian khuất nẻo – nơi người con gái có thể bày tỏ nỗi long. Cả thời gian và không gian ấy như đã nói lên tâm trạng con người đang mong nhớ thiết tha. Hai chữ “chiều chiều” mở đầu hô ứng với hai chữ “chin chiều” kết thúc bài ca dao tạo nên hiệu ứng lặp đi lặp lại một nỗi long xót xa, thấm thía của người con gái khi hướng về quê mẹ xa xôi.
Bên cạnh tình cảm cha mẹ - con cái, ca dao còn là những lời nhắn nhủ cảm động về tình cảm ông bà và cháu con:
“Ngó lên nuộc lạt mái nhà
Bao nhiêu nuộc lạt nhớ ông bà bấy nhiêu”
Nuộc lạt – một hình ảnh quen thuộc trên những mái nhà tranh của làng quê Việ Nam đã được đưa vào câu ca dao một cách rất tự nhiên, giản dị và gần gũi. Biện pháp so sánh bao nhiêu – bấy nhiêu đã thể hiện tình cảm nhớ thương, sự gắn bó bền chặt, ruột thịt của cháu con với ông bà. Âm điệu lời thơ tha thiết thể hiện sự kính trọng biết ơn!
Và, có lẽ, những người thân, người lớn trong nhà đã khuyên bào con cháu giữ chặt tình anh em:
Anh em nào phải người xa
Cùng chung bác mẹ một nhà cùng thân
Yêu nhau như thể tay chân
Anh em hòa thuận hai thân vui vầy
Một lần nữa lối ví von so sánh lại được sử dụng thành công trong hai câu ca dao. Tình cảm anh em gắn bó bền chặt không thể tách rời như tay với chân. Sự hòa thuận của an hem chính là niềm vui của cha mẹ gia đình. Bài ca dao là lời nhắc nhở nhẹ nhàng mà sâu sắc về tình cảm ruột thịt, anh em.
Với âm điệu thiết tha, sâu lắng cùng lối ví von so sánh đặc trưng, những câu thơ lục bát đã thể hiện tình cảm gia đình sâu sắc và thấm thía.
Nhắc nhở nhẹ nhàng mà không khô khan, khuyên nhủ mà không giáo huấn, ca dao chính là tiếng lòng mang chở cả tư tưởng, triết lý đạo đức của nhân dân. Nó đã trở thành viên ngọc quý trong kho tàng văn học Việt Nam.
Bạn tham khảo