Lí thuyết

PHONG TRÀO GIẢI PHÓNG DÂN TỘC VÀ TỔNG KHỞI NGHĨA THÁNG TÁM (1939 – 1945). NƯỚC VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA RA ĐỜI

 

I. TÌNH HÌNH VIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM 1939 – 1945   

1. Tình hình chính trị 

+ Thế giới

 - Ngày 1/9/1939: Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, ngày 3/9/1939, Pháp tuyên chiến với Đức. Tháng 6/1940, Pháp đầu hàng Đức.  

Lính Phát xít di chuyển qua một thị trấn của Pháp bị phá hủy nghiêm trọng năm 1940
Lính Phát xít di chuyển qua một thị trấn của Pháp bị phá hủy nghiêm trọng năm 1940

- Tháng 6/1941, Đức tấn công Liên Xô. Năm 1945, ở châu Âu:  phát xít Đức bị thất bại nặng nề; ở châu Á – Thái Bình Dương, Nhật bị thua to ở nhiều nơi.  

+ Đông Dương và Việt Nam 

- Ở Đông Dương, Đô đốc Đơcu làm Toàn quyền thực hiện một loạt chính sách vơ vét sức người, sức của của Việt Nam để dốc vào cuộc chiến tranh .  

- Cuối tháng 9/1940, Nhật vượt biên giới Việt – Trung vào miền Bắc Việt Nam, Pháp đầu hàng. Nhật giữ nguyên bộ máy thống trị của Pháp để vơ vét kinh tế phục vụ cho chiến tranh, đàn áp cách mạng. Việt Nam đặt dưới ách thống trị của Nhật – Pháp. 

Quân đội Nhật vào Lạng Sơn 9/1940
Quân đội Nhật vào Lạng Sơn 9/1940

 

- Từ tháng 9/1940, Pháp – Nhật câu kết với nhau để áp bức bóc lột nhân dân Đông Dương nhưng vì mâu thuẫn quyền lợi, cho nên chúng đều ngấm ngầm chuẩn bị đối phó nhau.

- Ở Việt Nam, bên cạnh đảng phái thân Pháp còn có đảng phái thân Nhật như: Đại Việt, Phục Quốc …ra sức tuyên truyền lừa bịp về văn minh, sức mạnh Nhật Bản, thuyết Đại Đông Á, dọn đường cho Nhật hất cẳng Pháp.  

- Ở Đông Dương, ngày 9/3/1945 Nhật đảo chính Pháp. Lợi dụng cơ hội đó, các đảng phái chính trị ở Việt Nam tăng cường hoạt động. Quần chúng nhân dân sục sôi khí thế, sẵn sàng vùng lên khởi nghĩa 

Tướng lĩnh Pháp bị bắt trong ngày Nhật đảo chính Pháp 9-3-1945
Tướng lĩnh Pháp bị bắt trong ngày Nhật đảo chính Pháp 9-3-1945

 

2. Tình hình kinh tế – xã hội 

* Kinh tế 

- Chính sách của Pháp  

+ Đầu tháng 9/1939, Toàn quyền Catơru ra lệnh tổng động viên nhằm “cung cấp cho mẫu quốc tiềm lực tối đa của Đông Dương về quân sự, nhân lực,…

+ Pháp thi hành chính sách “Kinh tế chỉ huy” : tăng mức thuế cũ, đặt thêm thuế mới …, sa thải bớt công nhân, viên chức, giảm tiền lương, tăng giờ làm…

- Chính sách của Nhật 

+ Pháp buộc phải để cho Nhật sử dụng phương tiện giao thông, kiểm soát đường sắt, tàu biển.

+ Buộc Pháp xuất cảng các nguyên liệu chiến tranh sang Nhật với giá rẻ như: than, sắt, cao su, xi măng…Hàng năm phải nộp cho Nhật một khoản tiền lớn.

+ Công ty của Nhật đầu tư vào những ngành phục vụ cho quân sự như măng-gan, sắt, phốt phát, crôm. 

+ Đối với nhân dân Việt Nam: cướp ruộng đất của nông dân, bắt nông dân nhổ lúa, ngô để trồng đay, thầu dầu phục vụ cho nhu cầu chiến tranh.

* Xã hội

- Chính sách bóc lột của Pháp – Nhật đẩy nhân dân ta tới chỗ cùng cực: Cuối 1944 đầu năm 1945 có tới 2 triệu đồng bào ta chết đói. 

Nạn đói tại trại Giáp Bát
Nạn đói tại trại Giáp Bát

 

- Nông dân: Chịu điêu đứng nhất, đói rét. Trong tổng số 2 triệu người chết đói cuối năm 1944 và đầu năm 1945 đa số là nông dân.

- Công nhân: Bị thất nghiệp, bị tăng giờ làm, bớt tiền lương, bị cúp phạt, đánh đập...

- Các tầng lớp tiểu tư sản: Đời sống bấp bênh vì giá sinh hoạt cao, thất nghiệp, thua lỗ sập hiệu...luôn luôn chờ đón họ.

- Giai cấp tư sản và địa chủ: (trừ một số có quyền lợi gắn chặt với Pháp, Nhật) cũng bị sa sút hoặc phá sản.

- Các giai cấp, tầng lớp ở nước ta, trừ tay sai đế quốc, đại địa chủ và tư sản mại bản đều bị ảnh hưởng bởi chính sách bóc lột của Pháp – Nhật .

* Điểm giống và khác nhau trong mục đích của Pháp - Nhật

- Giống: thủ đoạn của chúng nhằm che đậy hành vi áp bức bóc lột nhân dân Việt Nam, lừa bịp nhân dân ta lầm tưởng chúng là “bạn” chứ không phải là “kẻ thù”.

- Khác: Thủ đoạn chính trị của Pháp nhằm củng cố ách thống trị của Pháp ở Đông Dương còn trong khi đó thủ đoạn của Nhật là làm chỗ dựa cho việc Nhật cai trị Đông Dương vì Nhật mới xâm lược và nhảy vào Đông Dương.

II. PHONG TRÀO GIẢI PHÓNG DÂN TỘC TỪ THÁNG 9/1939 ĐẾN THÁNG 3/1945

1. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương tháng 11/1939

- Đứng trước tình hình mới, Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương họp Hội nghị lần thứ 6 (8/11/1939) họp tại Bà Điểm (Hóc Môn – Gia Định) do Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ chủ trì .

- Xác định kẻ thù trước mắt là đế quốc và tay sai.

- Đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu.

- Tạm gác khẩu hiệu cách mạng ruộng đất, thay khẩu hiệu "Chính quyền công nông" bằng khẩu hiệu "Chính phủ Dân chủ Cộng hòa”

- Chủ trương thành lập Mặt trận dân tộc Thống nhất Phản đế Đông Dương, nhằm đoàn kết rộng rãi các tầng lớp, giai cấp, các dân tộc Đông Dương, chĩa mũi nhọn vào kẽ thù chủ yếu trước mắt là đế quốc phát xít.

* Phân tích nội dung sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược.

- Luận cương chính trị (1930) của Đảng đã đề ra hai nhiệm vụ chiến lược “đánh đổ phong kiến và đế quốc”. Hai nhiệm vụ này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau.

- Trong một giai đoạn 1939 – 1941, Đảng Cộng sản đã kịp thời chuyển hướng chỉ đạo chiến lược: tập chung mũi nhọn vào kẻ thù chủ yếu trước mắt là chủ nghĩa đế quốc – phát xít, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu, tạm gác khẩu hiệu “Cách mạng ruộng đất”, thay khẩu hiệu “Chính phủ công – nông” bằng “Chính phủ Cộng hoà dân chủ Đông Dương”

* Ý nghĩa: Hội nghị trung ương lần thứ VI đánh dấu sự chuyển hướng đúng đắn về chỉ đạo chiến lược cách mạng. Đảng Cộng sản Đông Dương giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc, đoàn kết rộng rãi các tầng lớp, giai cấp và dân tộc Đông Dương trong cùng một Mặt trân Dân tộc Thống nhất, mở đường đi tới thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945.

2. Những cuộc đấu tranh mở đầu thời kì mới (đọc thêm)

a. Khởi nghĩa Bắc Sơn (27/ 9/1940)

Ngày 22/9/1940, Nhật vượt qua biên giới Việt – Trung, đánh chiếm Lạng Sơn, ném bom Hải Phòng, đổ bộ lên Đồ Sơn. 

- Ở Lạng Sơn, số lớn Pháp đầu hàng, số còn lại rút chạy về Thái Nguyên qua đường Bắc Sơn 

- Đêm 27/9/1940 Đảng bộ địa phương lãnh đạo nhân dân Bắc Sơn chặn đánh Pháp, chiếm đồn Mỏ Nhài, ngụy quyền Bắc Sơn tan rã, nhân dân làm chủ châu lị và các vùng lân cận, đội du kích Bắc Sơn thành lập.

- Pháp và Nhật đã cấu kết với nhau : Nhật cho Pháp trở lại Lạng Sơn; Pháp  khủng bố, đốt phá làng bản, bắn giết những người tham gia khởi nghĩa . 

- Mở đầu phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc, Đảng rút ra những bài học quý báu về khởi nghĩa vũ trang, thời cơ ... 

- Khởi nghĩa đã thất bại song đội du kích Bắc Sơn đã ra đời và sau đó phát triển thành Cứu quốc quân, hoạt động ở vùng Bắc Sơn và Võ Nhai.  

b. Khởi nghĩa Nam Kỳ (23/11/1940)

Tháng 11/1940, Pháp bắt thanh niên Việt Nam và Cao Miên làm bia đỡ đạn, nhân dân Nam Kỳ và binh lính phản đối. 

- Xứ ủy Nam Kỳ chuẩn bị phát động khởi nghĩa, cử đại biểu ra Bắc xin chỉ thị của Trung ương . 

- Kế  hoạch bị lộ nhưng lệnh khởi nghĩa của Xứ ủy đã đến các địa phương, nên khởi nghĩa vẫn nổ ra đêm 22 rạng sáng 23/11/1940.

- Khởi nghĩa bùng nổ từ miền Đông đến miền Tây Nam Bộ : Biên Hòa, Gia Định, Chợ Lớn, Tân An, Bến Tre, Trà Vinh, Cần Thơ, Sóc Trăng,  Bạc Liêu, Rạch Giá, Mỹ

- Thực dân Pháp đã đàn áp khởi nghĩa tàn khốc, cơ sở Đảng bị tổn thất nặng. Nhưng lá cờ đỏ sao vàng đã lần đầu tiên xuất hiện trong khởi nghĩa.

- Chứng tỏ tinh thần yêu nước của các tầng lớp nhân dân Nam Bộ, sẵn sàng đứng lên chiến đấu chống quân thù ở Mỹ Tho, Vĩnh Long. Chính quyền cách mạng thành lập ở nhiều nơi, lần đầu tiên xuất hiện lá cờ đỏ sao vàng. 

- Pháp cho máy bay ném bom tàn sát nhân dân những vùng nổi dậy và bắt nhiều người. Nghĩa quân còn lại rút về Đồng Tháp và U Minh để củng cố lực lượng

c. Binh biến Đô Lương (13/01/1941)       

Binh lính người Việt trong quân đội Pháp phản đối việc Pháp đưa binh lính người Việt sang Lào đánh nhau với quân Thái Lan . 

- Ngày 13/1/1941 binh lính đồn Chợ Rạng (Nghệ An) dưới sự chỉ huy của Đội Cung (Nguyễn Văn Cung) nổi dậy, đánh chiếm đồn Đô Lương rồi lên ô tô kéo về Vinh để phối hợp với binh lính ở đây chiếm thành. Pháp kịp thời đối phó. Chiều hôm sau, toàn bộ binh lính tham gia nổi dậy bị bắt. 

- Pháp xử bắn Đội Cung cùng 10 đồng chí, nhiều người khác bị kết án khổ sai, đưa đi đày.

- Cuộc binh biến thất bại do lực lượng của Pháp mạnh. Đội Cung bị bắt, bị tra tấn dã man và bị xử tử cùng 10 đồng chí.

- Thể hiện tinh thần yêu nước của binh lính Việt Nam trong quân đội Pháp . 

*    Nguyên nhân thất bại, ý nghĩa lịch sử và bài học kinh nghiệm của ba sự kiện trên:

- Nguyên nhân thất bại : Cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn, Nam Kì và cuộc binh biến Đô Lương, cuối cùng bị thất bại, do thực dân Pháp lúc này còn mạnh, khởi nghĩa nổ ra chưa chín muồi, chưa đúng thời cơ.

- Ý nghĩa lịch sử :

+ Trong ba tháng, ba cuộc nổi dậy nối tiếp nổ ra ở ba miền của đất nước, do nhiều tầng lớp nhân dân và binh lính tham gia, nêu cao tinh thần bất khuất của dân tộc. Các cuộc nổi dậy đã thất bại vì điều kiện khởi nghĩa chưa chín muồi, nhưng “ đó là những tiếng súng báo hiệu cho cuộc khởi nghĩa toàn quốc , là bước đầu đấu tranh bằng vũ lực của các dân tộc Đông Dương”

+ Nói lên lòng yêu nước nồng nàn, thể hiện tinh thần đấu tranh bất khuất vì độc lập – tự do của dân tộc ta.

+ Giáng một đồng chí tử vào Thực dân Pháp, cảnh cáo nghiêm khắc phát xít Nhật vừa mới đặc trưng vào Việt Nam. “Đó là những tiếng súng báo hiệu cuộc khởi nghĩa toàn quốc”.

- Bài học kinh nghiệm : Đề lại cho Cách mạng nhiều bài học kinh nghiệm quý báu, nhất là bài học về thời cơ khởi nghĩa. Riêng cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn thì đề lại cho cách mạng đội du kích Bắc Sơn (tiền thân của Cứu quốc quân); khởi nghĩa Nam Kì để lại cho cách mạng “Lá cờ đỏ sao vàng năm cánh” sau này trở thành biểu tượng thiên liêng của đất nước.

3. Nguyễn Ái Quốc về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng. Hội nghị lần thứ VIII – Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương tháng 5/1941

a. Hoàn cảnh lịch sử

- Thế giới: Chiến tranh thế giới đã bước sang năm thứ ba, sau khi chiếm phần lớn Châu Âu, phát xít Đức chuẩn bị tấn công Liên Xô; Nhật mở rộng xâm lược Trung Quốc, chuẩn bị chiến tranh Thái bình Dương.

- Trong nước:

+ Nhân dân Đông Dương phải chịu hai tầng áp bức bóc lột của Pháp - Nhật, mâu thuẫn giữa các dân tộc Đông Dương với đế quốc phát xít Pháp – Nhật phát triển gay gắt.

+ Nhân dân Đông Dương ngày càng cách mạng hoá, nhiều cuộc đấu tranh đã nổ ra, tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn (9/1940), Nam kì (11/1940) và cuộc binh biến Đô Lương (1/1941).

+ Trước tình hình thế giới và trong nước ngày càng khẩn trương, tháng 2/1941, Nguyễn Ái Quốc về nước và triệu tập hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 8, họp từ ngày 10 đến 19/5/1941 tại  Pắc Bó (Cao Bằng).

b. Nội dung hội nghị

- Nhận định mâu thuẫn giữa các dân tộc Đông Dương với đế quốc, phát xít Pháp, Nhật trở thành mâu thuẫn chủ yếu nhất, vận mệnh dân tộc nguy vong không lúc nào bằng.

=> Vì vậy, lúc này giải phóng dân tộc là nhiệm vụ bức thiết nhất, kẻ thù chính trước mắt là bọn đế quốc, phát xít Pháp, Nhật.

- Tiếp tục tạm gác khẩu hiệu "Tịch thu ruộng đất của địa chủ chia cho dân cày", đưa ra khẩu hiệu "Tịch thu ruộng đất của đế quốc, Việt gian chia cho dân cày".

- Chủ trương thành lập "Việt Nam độc lập đồng minh" (Việt Minh) bao gồm các tổ chức quần chúng lấy tên là cứu quốc, nhằm tập hợp rộng rãi các tầng lớp nhân dân chống đế quốc phát xít Pháp, Nhật và tay sai.

- Đề ra chủ trương khởi nghĩa vũ trang, coi việc chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang là nhiệm vụ trung tâm của toàn đảng, toàn dân; vạch rõ, khởi nghĩa vũ trang muốn thắng lợi phải nổ ra đúng thời cơ, phải có đủ điều kiện chủ quan và khách quan, đi từ khởi nghĩa từng phần tiến lên tổng khởi nghĩa. Sau khi khởi nghĩa thắng lợi sẽ thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng Hoà, lấy cờ đỏ sao vàng năm cánh làm cờ toàn quốc. 

- Ý nghĩa:  Hội nghị Trung ương lần thứ 8 đã hoàn chỉnh việc chuyển hướng chỉ đạo chiến lược và sách lược cách mạng đã đề ra ở Hội nghị Trung ương lần thứ 6 (11/1939). Nó có tác dụng quyết định trong việc vận động toàn Đảng, toàn dân chuẩn bị tiến tới Cách mạng tháng Tám.

Tại sao đến tháng 2/1941 Nguyễn Ái Quốc mới về nước?

=> Trong thời gian ở Quảng Châu (1925 – 1926), Nguyễn Ái Quốc thành lập Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên. Đến tháng 2/1930, Người đã triệu tập hội nghị hợp nhất ba tổ chức Cộng sản ở Việt Nam tại Hương Cảng. Nguyễn Ái Quốc chưa về nước bởi vì Cách mạng Việt Nam chưa có thời cơ giành thắng lợi.

=> Đến tháng 9/1939, thế chiến thứ hai (1945) bùng nổ, phe đồng minh và các dân tộc tiên bộ trên thế giới nhận rằng chủ nghĩa Phát xít sẽ thất bại và lúc đó thời cơ của các dân tộc thuộc địa giành độc lập sẽ đến.

=> Vì thế tháng 1/1941, Nguyễn Ái Quốc mới về nước lãnh đạo Cách mạng chuẩn bị mọi điều kiện để đón thời cơ giành độc lập hoàn toàn.

4. Chuẩn bị tiến tới khởi nghĩa giành chính quyền

a. Xây dựng lực lượng cho cuộc khởi nghĩa vũ trang

* Xây dựng lực lượng chính trị        

- Nhiệm vụ cấp bách: vận động quần chúng tham gia Việt Minh. Cao Bằng là nơi thí điểm xây dựng các Hội Cứu quốc. Năm 1942 khắp 9 châu của Cao Bằng đều có Hội Cứu quốc. Ủy ban Việt Minh tỉnh Cao Bằng và Ủy ban Việt Minh liên tỉnh Cao – Bắc – Lạng được thành lập. 

- Ở miền Bắc và miền Trung, các “Hội phản đế” chuyển sang các “Hội cứu quốc”, nhiều “Hội cứu quốc” mới được thành lập.

- Năm 1943, Đảng đưa ra bản “Đề cương văn hóa Việt Nam” và vận động thành lập Hội văn hóa cứu quốc Việt Nam (cuối năm 1944) và Đảng dân chủ Việt Nam đứng trong Mặt trận Việt Minh (tháng 6/1944). Đảng cũng tăng cường vận động binh lính Việt và ngoại kiều Đông Dương chống phát xít.

- Báo chí của Đảng và của Mặt trận Việt Minh (Việt Nam độc lập, Giải phóng,…) đã góp phần vào việc tuyên truyền đường lối chính sách của Đảng, đấu tranh chống thủ đoạn chính trị, văn hoá của địch…

* Xây dựng lực lượng vũ trang

 - Sau khởi nghĩa Bắc Sơn, đội du kích Bắc Sơn thành lập, hoạt động tại căn cứ Bắc Sơn – Võ Nhai. Năm 1941, các đội du kích Bắc Sơn lớn mạnh, thống nhất thành Trung đội Cứu quốc quân số I (14/2/1941).

Những đội viên đầu tiên của Đội du kích Bắc Sơn
Những đội viên đầu tiên của Đội du kích Bắc Sơn

 

-  Cứu quốc quân phát động chiến chiến tranh du kích trong 8 tháng (từ tháng 7/1941 đến tháng 2/1942) để đối phó với sự vây quét của địch, sau đó phân tán thành nhiều bộ phận để chấn chỉnh lực lượng, gây dựng cơ sở chính trị trong quần chúng

 Ngày 15/9/1941, Trung đội Cứu quốc quân II ra đời.

* Xây dựng căn cứ địa cách mạng

- Hội nghị Trung ương lần thứ VII (11/1940) chủ trương xây dựng Bắc Sơn – Võ Nhai thành căn cứ địa cách mạng .

- Năm 1941, sau khi về nước, Nguyễn Ái Quốc chọn Cao Bằng để xây dựng căn cứ địa.

- Từ 1943, cuộc chiến tranh thế giới chuyển biến có lợi cho cách mạng, sự thất bại của phát xít đã rõ ràng, Đảng đẩy mạnh chuẩn bị cho khởi nghĩa giành chính quyền. 

b. Gấp rút chuẩn vị khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền

- Tháng 2/1943, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp vạch ra kế hoạch chuẩn bị toàn diện cho khởi nghĩa vũ trang. Khắp nông thôn, thành thị miền Bắc, các đoàn thể Việt Minh, các Hội Cứu quốc  được xây dựng và củng cố. 

- Ở căn cứ Bắc Sơn –Võ Nhai, Cứu quốc quân hoạt động mạnh, tuyên truyền vũ trang, gây dựng cơ sở chính trị, mở rộng khu căn cứ. Trong quá trình đó, Trung đội cứu quốc quân III ra đời (25/2/1944). 

- Ở căn cứ Cao Bằng, các đội tự vệ vũ trang, đội du kích thành lập. Năm 1943, 19 ban “xung phong Nam tiến” được lập ra để  liên lạc với căn cứ địa Bắc Sơn – Võ Nhai và phát triển lực lượng xuống miền xuôi . 

- Ngày 7/5/1944: Tổng bộ Việt Minh ra chỉ thị “sửa soạn khởi nghĩa” và ngày 10/8/1944, Trung ương Đảng kêu gọi nhân dân “Sắm vũ khí đuổi thù chung”

- Ngày 22/12/1944, theo chỉ thị của Hồ Chí Minh, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân thành lập. Hai ngày sau, đội thắng hai trận Phay Khắt và Nà Ngần.

Lễ thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân
Lễ thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân

 

- Ngày 9/3/1945, Nhật đảo chính Pháp, tiếp theo chủ thị “Nhật – Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” của Đảng. Mặt trận Việt Minh ra lệnh kêu gọi đồng bào toàn quốc đẩy mạnh Cao trào kháng Nhật cứu nước.

- Tháng 5/1945, sáp nhập “Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân” với “Cứu quốc quân” thành “ Việt Nam giải phóng quân”

=> Đến Cách mạng tháng Tám, Mặt trận Việt Minh đã phát triển rộng khắp, và đóng vai trò quan trọng trong khởi nghĩa giành chính quyền. Chính sự chuẩn bị chu đáo đã khiến Cách mạng tháng Tám diễn ra và thành công nhanh chóng, ít đổ máu.

III. KHỞI NGHĨA VŨ TRANG GIÀNH CHÍNH QUYỀN

1. Khởi nghĩa từng phần giành chính quyền từng bộ phận trong Cao trào kháng Nhật cứu nước (từ tháng 3 đến giữa tháng 8/1945)

 a. Hoàn cảnh lịch sử 

* Thế giới  

- Đầu 1945, Liên Xô đánh bại phát xít Đức, giải phóng các nước Trung và Đông Âu. - Ở châu Á – Thái Bình Dương, Nhật thất bại nặng nề. 

- Ở Đông Dương, lực lượng Pháp theo phái Đờ Gôn chờ thời cơ phản công Nhật, mâu thuẫn Nhật - Pháp trở nên gay gắt. 

* Trong nước 

+ Tối 9/3/1945, Nhật đảo chính Pháp, Pháp đầu hàng. Nhật tuyên bố : “giúp các dân tộc Đông Dương xây dựng nền độc lập”, dựng Chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim, đưa Bảo Đại làm “Quốc trưởng”. Thực chất là độc chiếm Đông Dương, tăng cường vơ vét, bóc lột và đàn áp dã man những người cách mạng. 

+ Trong bối cảnh đó, ngày 12/03/1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị: “Nhật – Pháp bắn nhau và hành đông của chúng ta”, phát động “Cao trào kháng Nhật” làm tiền đề cho tổng khởi nghĩa. Hội nghị nhận định:

- Kẻ thù chính của nhân dân Đông Dương: phát xít Nhật.

- Khẩu hiệu: “Đánh đuổi phát xít Nhật”. 

- Hình thức đấu tranh:  từ bất hợp tác bãi công, bãi thị đến biểu tình, thị uy, vũ trang du kích và sẵn sàng chuyển qua tổng khởi nghĩa khi có điều kiện .  

b. Diễn biến khởi nghĩa từng phần  

- Ở căn cứ địa Cao – Bắc – Lạng, Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân và Cứu quốc quân phối hợp với lực lượng chính trị của quần chúng giải phóng hàng loạt xã, châu, huyện, chính quyền nhân dân được thành lập.

- Ở Bắc Kì và Bắc Trung Kì, trước nạn đói trầm trọng, Đảng chủ trương “Phá kho thóc, giải quyết nạn đói”, đáp ứng nguyện vọng cấp bách của nông dân, tạo thành phong trào đấu tranh mạnh mẽ chưa từng có.

Lính Nhật đánh đuổi người dân đang cướp kho thóc
Lính Nhật đánh đuổi người dân đang cướp kho thóc

 

- Việt Minh lãnh đạo quần chúng nổi dậy ở Hiệp Hòa (Bắc Giang), Tiên Du (Bắc Ninh), Bần Yên Nhân (Hưng Yên).

- Ở Quảng Ngãi, tù chính trị ở nhà lao Ba Tơ nổi dậy, lập chính quyền cách mạng, tổ chức đội du kích Ba Tơ. Hàng ngàn cán bộ cách mạng bị giam trong nhà tù ở Hà Nội, Buôn Mê Thuột, Hội An đấu tranh đòi tự do, nổi dậy phá nhà giam, ra ngoài hoạt động. 

Phong trào đấu tranh của tù chính trị Ba Tơ
Phong trào đấu tranh của tù chính trị Ba Tơ

- Ở Nam Kỳ, Việt Minh hoạt động mạnh mẽ ở Mỹ Tho, Hậu Giang. 

2. Sự chuẩn bị cuối cùng trước ngày Tổng khởi nghĩa

- Từ ngày 15 đến 20/4/1945, Hội nghị quân sự cách mạng Bắc kỳ quyết định 

+ Thống nhất các lực lượng vũ trang, phát triển hơn nữa lực lương vũ trang và nửa vũ trang.

+ Mở trường đào tạo cấp tốc cán bộ quân sự và chính trị.

+ Phát triển chiến tranh du kích, xây dựng căn cứ địa kháng Nhật, chuẩn bị  Tổng khởi nghĩa khi thời cơ đến, Ủy ban Quân sự cách mạng Bắc Kỳ được thành lập.  

- Ngày 16/4/1945, Tổng bộ Việt Minh ra chỉ thị thành lập Uỷ ban dân tộc giải phóng Việt Nam và Uỷ ban dân tộc giải phóng các cấp.

- Ngày 15/5/1945, Việt Nam cứu quốc quân và Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân  thống nhất thành Việt Nam giải phóng quân.

- Ngày 4/6/1945 thành lập Khu giải phóng Việt Bắc gồm 6 tỉnh Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Hà Giang, Tuyên Quang, Thái Nguyên và một số vùng thuộc các tỉnh lân cận Bắc Giang, Phú Thọ, Yên Bái, Vĩnh Yên. Tân Trào được chọn làm thủ đô. Ủy ban lâm thời Khu giải phóng được thành lập. Khu giải phóng Việt Bắc trở thành căn cứ địa chính của cách mạng cả nước và là hình ảnh thu nhỏ của nước Việt Nam mới.   

Khu giải phóng Việt Bắc
Khu giải phóng Việt Bắc

  =>  Công cuộc chuẩn bị gấp rút đã hoàn thành. Toàn dân tộc đã sẵn sàng chờ thời cơ Tổng khởi nghĩa. 

3. Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945

a.  Thời cơ lịch sử

Cách mạng chỉ nổ ra và giành thắng lợi khi có sự chuẩn bị chu đáo từ bên trong và chớp được thời cơ thuận lợi từ bên ngoài. Cách mạng tháng Tám ở Việt Nam thể hiện rõ điều này.

* Khách quan

- Ngày 9/8/1945, Hoa Kì ném hai quả bom nguyên tử xuống hai thành phố Hirôsiama và Nagaxaki của Nhật Bản, huỷ diệt hai thành phố này, giết hại hàng vạn dân thường.

- Ngày 15/08/1945, Nhật đầu hàng Đồng minh vô điều kiện. Bọn Nhật ở Đông Dương và tay sai Nhật hoang mang. Điều kiện khách quan có lợi cho Tổng khởi nghĩa đã đến.

* Chủ quan

- Kể từ sau Hội nghị 8 BCH TW Đảng Cộng sản Đông Dương (5/1941), nhân dân ta đã xúc tiến chuẩn bị mọi mặt (lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang, căn cứ địa cách mạng), tập dượt đấu tranh, chỉ chờ thời cơ đến là nổi dậy giành chính quyền.

- Biết tin Nhật ở chính quốc đầu hàng đồng minh, bọn tay sai của chúng ở Đông Dương hoang mang như rắn mất đầu. Chính phủ Trần Trọng Kim hoảng loạn.

=> thời cơ “ngàn năm có một” cho cả dân tộc đã đến.

* Tổ chức chớp thời cơ giành chính quyền

- Ngày 13/08/1945, Trung ương Đảng và Tổng bộ Việt Minh thành lập Ủy ban khởi nghĩa Toàn quốc,  ban bố : “ Quân lệnh số 1”, phát lệnh Tổng khởi nghĩa trong cả nước. 

- Từ ngày 14 đến 15/8/1945, Hội nghị toàn quốc của Đảng họp ở Tân Trào (Tuyên Quang), quyết định phát động tổng khởi nghĩa trong cả nước, giành chính quyền trước khi quân Đồng minh vào Đông Dương, những vấn đề đối nội, đối ngoại sau khi giành được chính quyền. 

- Từ ngày 16 đến 17/8/1945, Đại hội quốc dân ở Tân Trào tán thành chủ trương Tổng khởi nghĩa của Đảng, thông qua 10 chính sách của Việt Minh , cử ra Ủy ban dân tộc giải phóng Việt Nam  do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch, lấy lá cờ đỏ sao vàng năm cánh làm Quốc kỳ, bài Tiến quân ca làm Quốc ca . 

b. Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 

- Giữa tháng 8/1945, khí thế cách mạng sục sôi trong cả nước. Từ ngày 14.08.1945, một số cấp bộ Đảng, Việt Minh, tuy chưa nhận được lệnh Tổng khởi nghĩa nhưng căn cứ tình hình cụ thể của địa phương và vận dụng chỉ thị: “Nhật – Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”, phát động nhân dân khởi nghĩa ở nhiều xã, huyện thuộc các tỉnh đồng bằng châu thổ sông Hồng, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Thừa Thiên – Huế, Khánh Hòa …

- Chiều 16/08/1945, theo lệnh của Ủy ban khởi nghĩa, một đơn vị giải phóng quân do Võ Nguyên Giáp chỉ huy, từ Tân Trào về giải phóng thị xã Thái Nguyên, mở đầu cuộc Tổng khởi nghĩa.

- 18/8/1945, Bắc Giang, Hải Dương, Hà Tĩnh, Quảng Nam giành chính quyền ở tỉnh  lị. 

* Giành chính quyền ở Hà Nội 

+ 19/08, hàng chục vạn nhân dân xuống đường biểu dương lực lượng, chiếm các cơ quan đầu não của địch: Phủ Khâm sai Bắc Bộ, Sở Cảnh sát Trung ương, Sở Bưu điện,… .Tối 19/8/1945 khởi nghĩa thắng lợi.

Chi đội Giải phóng quân tiến vào Hà Nội 1945
Chi đội Giải phóng quân tiến vào Hà Nội 1945

 

* Giành chính quyền ở Huế 

- Ngày 23/8/1945, khởi nghĩa ở Huế giành thắng lợi

- Chiều 30/8/1945, vua Bảo Đại thoái vị, chế độ phong kiến sụp đổ. 

* Giành chính quyền ở Sài Gòn  

- Ngày 25/8, nhân dân Sài Gòn khởi nghĩa giành thắng lợi. Đến ngày 28/8, 2 tỉnh cuối cùng là Hà Tiên và Đồng Nai Thượng giành thắng lợi

Nhân dân Sài Gòn mít tinh, tuần hành vũ trang lật đổ chính quyền phát xít Nhật
Nhân dân Sài Gòn mít tinh, tuần hành vũ trang lật đổ chính quyền phát xít Nhật

 

- Thắng lợi của cuộc khởi nghĩa ở Hà Nội, Huế, Sài Gòn đã cổ vũ nhân dân các địa phương khác trong cả nước vùng lên khởi nghĩa giành chính quyền

=>  Như vậy, Tổng khởi nghĩa đã giành được thắng lợi trên cả nước trong vòng nửa tháng, từ ngày 14 đến ngày 28/8/1945. Cách mạng tháng Tám thành công trong toàn quốc tương đối nhanh chóng và ít đổ máu.

* Tính chất toàn diện của cuộc vùng dậy vĩ đại đó của nhân dân ta thể hiện ở chỗ: tất cả các lực lượng của quần chúng nhân dân, trước hết là công nhân và nông dân, bao gồm lực lượng chính trị và vũ trang, ở cả nông thôn và thành thị, bao gồm mọi hình thức đấu tranh, trong đó lực lượng chính trị có vũ trang thô sơ, giữ vai trò chủ yếu, lực lượng vũ trang đóng vai trò xung kích để đập tan chính quyền địch.

IV. NƯỚC VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ ĐƯỢC THÀNH LẬP (2/9/1945)

*Hoàn cảnh

+ Thế giới: Ngày 15/8/1945 Phát xít Nhật đầu hàng đồng minh không điều kiện, phe phát xít hoàn toàn thất bại. Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc.

+ Trong nước: Từ ngày 18 đến 28/8/1945, cuộc tổng khởi nghĩa của nhân dân ta đã giành được chính quyền trên toàn quốc… Lần đầu tiên trong lịch sử dân tộc, chính quyền trong cả nước đã thực sự về tay nhân dân ta…

=> Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình, Mặt trận Việt Minh tổ chức buổi lễ ra mắt Chính phủ lâm thời. Chủ tịch Hồ Chí Minh trịnh trọng đọc bản tuyên ngôn độc lập, tuyên bố trước quốc dân và thế giới rằng nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời.

Bác Hồ đọc tuyên ngôn độc lập - khai sinh ra nước VNDCCH
Bác Hồ đọc tuyên ngôn độc lập - khai sinh ra nước VNDCCH

* Ý nghĩa:

- Nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời là một biến cố lịch sử vĩ đại của dân tộc, nó phá tan xiềng xích của nô lệ Pháp - Nhật và phong kiến lập nên Việt Nam dân chủ cộng hoà.

- Từ một nước thuộc địa chúng ta đã giành được độc lập, tự do.

- Mở ra kỷ nguyên mới trong lịch sử: kỷ nguyên độc lập, tự do gắn liền với chủ nghĩa xã hội. 

- Thắng lợi đầu tiên trong thời đại mới của một dân tộc nhược tiểu đã tự giải phóng khỏi ách đế quốc.

- Đồng thời với sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á đã cổ vũ mạnh mẽ tinh thần đấu tranh của nhân dân các nước thuộc địa và nữa thuộc địa trên thế giới, nhất là ở châu Á và châu Phi.

V. NGUYÊN NHÂN THẮNG LỢI, TÍNH CHẤT, Ý NGHĨA LỊCH SỬ VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM CỦA CÁCH MẠNG THÁNG TÁM NĂM 1945 

1. Nguyên nhân thắng lợi 

a. Nguyên nhân khách quan: Chiến thắng của Đồng minh trong chiến tranh chống phát xít, nhất là chiến thắng Đức và Nhật  của Liên Xô, đã cổ vũ tinh thần, niềm tin cho nhân dân ta trong đấu tranh giải phóng dân tộc, tạo thời cơ để nhân dân ta đứng lên Tổng khởi nghĩa. 

b. Nguyên nhân chủ quan:  

- Dân tộc ta có truyền thống yêu nước nồng nàn, khi Đảng Cộng sản Đông Dương, Việt Minh phất cao cờ cứu nước thì toàn dân nhất tề đứng lên cứu nước, cứu nhà.

- Đảng đã đề ra đường lối chiến lược, chỉ đạo chiến lược và sách lược đúng đắn trên cơ sở lý luận Mác – Lênin được vận dụng sáng tạo vào hoàn cảnh Việt Nam. 

- Đảng Cộng sản Đông Dương có quá trình chuẩn bị suốt 15 năm, qua các phong trào cách mạng 1930 – 1931, 1936 – 1939 và thoái trào cách mạng 1932 – 1935, đã rút những bài học kinh nghiệm thành công và thất bại, nhất là quá trình xây dựng lực lượng chính trị, vũ trang, căn cứ địa trong thời kỳ vận động giải phóng dân tộc 1939 – 1945.

- Toàn Đảng, toàn dân nhất trí, quyết tâm giành độc lập tự do, linh họat, sáng tạo chỉ đạo khởi nghĩa, chớp thời cơ phát động quần chúng nổi dậy giành chính quyền.

2. Tính chất của cuộc cách mạng 

- Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở Việt Nam nổ ra vào thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới, mở đầu bằng cuộc Cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười Nga (1917). Nhiệm vụ cách mạng của nó là phải đánh đuổi bọn đế quốc, lật đổ chế độ phong kiến để giành độc lập dân tộc dân tộc, ruộng đất cho dân cày, rồi sau đó mở đường tiến lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua thời kỳ phát triển tư bản chủ nghĩa. Lực lượng lãnh đạo cách mạng là do giai cấp vô sản.  Lực lượng tham gia cách mạng bao gồm bốn giai cấp là: giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, giai cấp tiểu tư sản, giai cấp tư sản dân tộc song động lực chủ yếu là công – nông. 

- Kết quả: Cách mạng tháng Tám đã đánh đuổi bọn đế quốc, giải phóng dân tộc, tịch thu được một phần ruộng đất của bọn đế quốc và bọn Việt gian phản động để tạm giao cho dân cày nghèo cày cấy và ban bố được quyền tự do dân chủ cho nhân dân.

- Như vậy, Cách mạng tháng Tám trước hết chỉ là một cuộc Cách mạng giải phóng dân tộc, song vì giải phóng dân tộc là nhiệm vụ cơ bản nhất của một trong hai nhiệm vụ cơ bản của một cuộc Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân mà nếu hoàn thành nhiệm vụ này thì tất yếu sẽ mở đường đi đến hoàn thành nhiệm vụ tiếp theo. Vì thế chúng ta có thể nói Cách mạng tháng Tám là một cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân.

3. Ý nghĩa lịch sử 

* Đối với dân tộc Việt Nam

- Mở ra bước ngoặt lớn trong lịch sử dân tộc ta, phá tan xiềng xích nô lệ của Pháp - Nhật, lật nhào ngai vàng phong kiến, lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. 

- Đánh dấu bước phát triển nhảy vọt của cách mạng Việt Nam, mở đầu kỷ nguyên mới độc lập, tự  do; nhân dân lao động nắm chính quyền, làm chủ đất nước, làm chủ vận mệnh dân tộc; kỷ nguyên giải phóng dân tộc gắn liền với giải phóng xã hội. 

* Đối với thế giới   

- Góp phần vào chiến thắng chủ nghĩa phát xít trong Chiến tranh thế giới thứ hai.

- Cổ vũ mạnh mẽ các dân tộc thuộc địa đấu tranh tự giải phóng, có ảnh hưởng to lớn đến Miên (Campuchia) và Lào.

4. Bài học kinh nghiệm của Cách mạng tháng Tám 1945

- Đảng đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào thực tiễn Việt Nam, kịp thời thay đổi chủ trương chỉ đạo chiến lược cho phù hợp; giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa nhiệm vụ dân tộc và dân chủ, đề cao vấn đề dân tộc, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc  lên hàng đầu.

- Đoàn kết các lực lượng cách mạng trong mặt trận dân tộc thống nhất, trên cơ sở liên minh công nông, tạo nên sức mạnh toàn dân, phân hóa và cô lập cao độ kẻ thù để tiến tới tiêu diệt chúng.

-  tư tưởng bạo lực cách mạng, kết hợp đấu tranh chính trị với vũ trang, kết hợp chiến tranh du kích, đấu tranh chính trị và khởi nghĩa từng phần, khởi nghĩa ở nông thôn và thành thị, tiến tới Tổng khởi nghĩa.

- Đảng luôn kết hợp đấu tranh và xây dựng để ngày càng vững mạnh về tổ chức, tư tưởng và chính trị, đủ năng lực và uy tín lãnh đạo cách mạng thành công.

- Tích cực chuẩn bị, chớp lấy thời cơ dũng cảm phát động toàn dân khởi nghĩa giành chính quyền.