Đề bài: Phát biểu cảm nghĩ của em sau khi đọc truyện ngụ ngôn Thầy bói xem voi.

Nguyễn Ngọc Phương Uyên
Xem chi tiết
Nguyễn Thị Hải Vân
18 tháng 12 2022 lúc 19:41

TK:

– Muốn tới hang Én phải xuyên qua rừng nguyên sinh. qua con dốc Ba Gian dài gần 2km. Dốc cao và gập ghềnh, đường mòn vừa một người đi, khá trơn, nhiều chặng có cây đổ chắn ngang hoặc những vòm dây leo giăng kín.

– Nhiều cây cổ thụ tán cao vút, thân đầy các loại tầm gửi, có cả hoa phong lan đang nở.

– Có sên, vắt và nhiều loại côn trùng, chim chóc.

– Nhiều con suối róc rách, thảm cỏ, cây cối rậm rạp, lúp xúp

– Nước suối trong vắt, mát lạnh, nhìn rõ đàn cá bơi liêu xiêu giữa dòng nước.

– Những đàn bướm đủ màu, đậu thành từng vạ

Đây là một khu rừng nguyên thủy, rộng lớn, cảnh sắc thiên nhiên vô cùng phong phú, đa dạng và hùng vĩ.

Bình luận (0)
NGUYỄN HỒNG NHÂN
18 tháng 12 2022 lúc 19:41

cái này b tự làm sẽ hiểu hơn bọn mình giải cho b

Bình luận (0)
nguyễn thị thanh mai
Xem chi tiết
Lão Hạc
Xem chi tiết
Minh Ngọc
21 tháng 7 2021 lúc 19:04

Tham khảo

Với lứa tuổi học sinh chúng ta thì chắc hẳn không ai không biết đến bài thơ Lượm do Tố Hữu – nhà thơ cách mạng biểu của Việt Nam sáng tác. Bài thơ đã để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc hình ảnh Lượm, một cậu bé thiếu nhi hy sinh vì nhiệm vụ trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.Cậu bé thật tự hào khi mình đã được phục vụ kháng chiến khi còn rất nhỏ.Nhìn cậu lúc này xem cậu đi thoăn thoắt cái đầu cậu lại nghênh nghênh với chiếc mũ ca nô đặc trưng của các chiến sĩ liên lạc nhưng lại được chú đội lệch sang hắn một bên thể hiện Lượm là một cậu bé rất tinh nghịch và rất trẻ trung, yêu đời.vẫn hình ảnh vô tư hồn nhiên ấy, nhưng Lượm lại hiện lên như những người chiến sĩ giải phóng quân thực thụ, dù mưa bom bão đạn xung quanh, cái chết rình rập nhưng cậu không hề sợ hãi.Trước nhu cầu truyền thông tin “thượng khẩn”, lòng yêu tổ quốc giúp cậu vượt lên mọi nỗi lo sợ. Lượm đã hi sinh anh dũng khi đang làm nhiệm vụ trong cảnh mưa bom bão đạn,trên chính  đất mẹ quê hương.Đây là sự hi sinh cao cả mà thế hệ nào cũng cần phải học từ cậu.

Bình luận (0)
Đỗ Quỳnh Giang
Xem chi tiết
_silverlining
10 tháng 2 2017 lúc 18:56

Tôi nhớ hồi mới học lớp 5 thầy giáo bảo tôi: Tiếng Việt ta giàu và đẹp lắm em ạ, nên phải biết yêu quý, trân trọng và giữ gìn nó (sở dĩ thầy nhắc khéo tôi là vì lúc ấy, tôi mới học lỏm được của anh trai mình mấy từ tiếng Pháp, lại học lỏn của chị con nhà bác hàng xóm mới đi Nga về mấy từ tiếng Nga. Thế là trong bài tập làm văn, tôi chêm vào đó cả tiếng Pháp lẫn tiếng Nga). Lúc bấy giờ, tôi thầm nghĩ: Thầy có muốn viết như mình cũng chả được, vì thầy có biết ngoại ngữ đâu. Mà tiếng Việt có gì là ghè gớm lắm chử! Nhưng rồi học lên lớp 6, rồi lớp 7, tôi được tiếp xúc với bao áng thơ văn trữ tình đằm thắm, tôi mới thấy thấm thìa câu nói đó của thầy tôi. Nghĩ lại những ý nghĩ ngây thơ và ngu ngốc hồi trước, tôi lại càng giận mình.

Tiếng Việt ta giàu đẹp như thế nào là vấn đề đã được không ít các nhà nghiên cứu quan tâm. Cố thủ tướng Phạm Văn Đồng có bài viết Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, nhà phê bình Đặng Thai Mai có Tiếng Việt, một biểu hiện hùng hồn của sức sống dân tộc ...

Các nhà văn, nhà thơ không cần bàn luận gì, họ chỉ lặng lẽ mài giũa cho tiếng Việt ngày càng “trong” và “sáng” hơn, ngày càng “giàu” và “đẹp” hơn. Quả thực, tiếng Việt ta rất giàu và đẹp.

Tiếng Việt là thứ ngôn ngữ giàu hình ảnh, hình tượng. Với một hệ thống các từ láy, từ ghép, từ tượng hình, tượng thanh, tiếng Việt có khả năng gợi ra được những hình ảnh rất rõ nét trong trí óc của người nghe.

Chắc chúng ta ai chẳng nhớ hai câu thơ với cách dùng từ gợi hình ảnh, trạng thái đầy ấn tượng của nữ sĩ Thanh Quan:

Lom khom dưới núi tiều vài chú

Lác đác bên sông chợ mấy nhà

Nhờ những từ láy lom khom, lác đác mà sức biểu hiện của câu thơ đã tăng gấp bội . Cảnh hoang vu, quạnh vắng của Đèo Ngang trong buổi chiều tà càng thêm hiu hắt, ảm đạm.

Một điều lí thú hơn là ngay cả những từ đơn âm của tiếng Việt cũng có giá trị gợi hình. Chẳng hạn như:

Thân em vừa trắng lại vừa tròn

Bảy nổi ba chìm với nước non

(Hồ Xuân Hương)

Và đây nữa, hình ảnh con hổ uy nghi, dũng mãnh, đẹp một vẻ đẹp hùng tráng:

Ta bước chân lên dõng dạc đường hoàng

Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng

Vờn bóng âm thầm, lá gai cỏ sắc

Trong đêm tối mắt thần khi đã quắc

Là khiến cho mọi vật đều im hơi.

(Thế Lữ)

Cùng với khả năng tạo hình, tiếng Việt còn là thứ tiếng giàu âm thanh, nhạc điệu. Với một hệ thống nguyên âm, phụ âm phong phú, thêm vào đó là hệ thống các thanh điệu với những âm độ, âm vực, tiếng Việt có khả năng tạo ra nhiều giai điệu khác nhau: lúc du dương trầm bổng, lúc réo rắt, có lúc lại sâu lắng, thiết tha...

Ta hãy nghe những giai điệu êm đềm, đằm thắm của câu ca dao:

Gió đưa, cành trúc la đà

Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương

Mịt mù khói toả ngàn sương

Nhịp chày Yên Thái, mặt gương Tây hồ

Hãy cảm nhận âm điệu của những dấu huyền ngọt ngào (Xuân Diệu) trong câu thơ Chinh phụ ngâm:

Ngòi đầu cầu nước trong như lọc

Đường bên cầu cỏ mọc còn non

Và những giai điệu vừa sôi nổi rạo rực, vừa thiết tha đằm thắm, du dương của câu thơ Tố Hữu:

Đẹp vô cùng Tổ quốc ta ơ

Rừng cọ, đồi chè, đồng xanh ngào ngạt

Nắng chói sông Lô, hò ô tiếng hát

Chuyến phà dào dạt bến nước Bình Ca.

Chỉ riêng với hai khả năng: tạo hình và tạo nhạc, tiếng Việt đã đủ xứng đáng là một thứ ngôn ngữ vừa giàu vừa đẹp. Tuy nhiên, sự giàu và đẹp của tiếng Việt không chỉ dừng lại ở đó. Một đặc điểm không thể bỏ qua của tiếng Việt là sắc thái gợi cảm, sắc thái biểu hiện cảm xúc. Nó có khả năng diễn tả tinh tế những trạng thái khác nhau trong đời sống nội tâm phong phú của tâm hồn Việt.

Chỉ lấy ví dụ riêng về mặt diễn tả tâm trẹng nhớ nhung của con người cũng đủ làm ta ngạc nhiên.

Một trạng thái nhớ nhung bâng khuâng:

Anh đi anh nhớ quê nhà

Nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tương

Nhớ ai dãi nắng dầm sương

Nhớ ai tát nước bên đường hôm nao

(Trần Tuấn Khải)

Một trạng thái nhớ nhung cồn cào, da diết:

Nhớ ai bổi hổi bồi hồi

Như đứng đống lửa như ngồi đống rơm

(Ca dao)

Một nỗi sầu mênh mang, sâu thẳm:

Chàng thì đi cõi xa mưa gió

Thiếp thì về buồng cũ chiếu chăn

Đoái trông theo đã cách ngăn

Tuôn màu mây biếc trải ngàn núi xanh.

(Chinh phụ ngâm)

Vốn từ của tiếng Việt cũng rất phong phú và độc đáo. Chỉ xét riêng vốn từ ngữ xưng hô cũng đã đủ làm ra sự đặc sắc đó. Trong từ ngữ xưng hô của tiếng Việt, ngoài những đại từ nhân xưng được ghi trong từ điển, người Việt ta còn dùng các danh từ chỉ quan hệ họ hàng làm từ xưng hô, khiến cho cách nói năng hàm chứa nhiều sắc thái tình cảm hơn.

Ngay cách dùng từ ngữ xưng hô cũng rất đặc biệt. Đã có ai lại thêm ta, rồi lại mình. Những từ này có khi là chủ thể phát ngôn, có khi là đối thể tiếp nhận, có khi lại bao hàm cả hai.

Chỉ riêng từ mình trong hai ví dụ sau đã thấy bao điều lí thú:

Mình đi mình lại nhớ mình

Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình lấy nhiêu

(Tố Hữu)

Mình nói với ta mình hãy còn son

Ta đi qua ngõ thấy con mình bò

Con mình lấm đất cùng tro

Ta đi gánh nước rửa cho con mình

(Ca dao)

Càng tìm hiểu kĩ hơn về tiếng Việt, ta càng ngỡ ngàng trước sự giàu đẹp của nó. Và càng thêm yêu tiếng Việt hơn.



Bình luận (0)
Linh Phương
10 tháng 2 2017 lúc 19:33

Tiếng Việt ra đời từ rất sớm, hình thành và phát triển qua nhiều giai đoạn lịch sử. Tiếng Việt có nhiều thể loại và nhiều cách thể hiện khác nhau, từ hội họa, ca nhạc, điêu khắc, đến thơ, văn chương truyền khẩu, lời ăn tiếng nói hằng ngày. Văn học cũng là một khía cạnh của Tiếng Việt. Cũng như Tiếng Việt, văn học Việt Nam ra đời từ thời viễn cổ ((chỗ này hơi lũng cũng)), phát triển qua các giai đoạn lịch sử và phân hóa thành hai thể loại: Văn chương truyền khẩu và văn học viết ((bao gồm chữ Hán, chữ Nôm và chữ Quốc Ngữ)). Dù ở giai đoạn nào ((vh vn phát triển qua 4 giai đoạn)), thể loại ((văn xuôi, hồi kí, tùy bút, tác phẩm tự sự,ca dao, tục ngữ...)) hay hình thức thể hiện ((văn xuôi hoặc thơ)) nào thì văn học Việt Nam vẫn mang đậm truyền thống yêu nước ((Nguyễn Trãi, HCM,Huy Cận, Tố Hữu,...)) và tinh thần tự hào dân tộc ((HCM, Tế Hanh,...)), tình nhân ái, tấm lòng nhân đạo ((Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Bà Huyện Thanh Quan,...)), yêu thương con người và bản sắc dân tộc, yêu cảnh sắc non sông đất nước....((nên kể thêm các tp và tg: Tản Đà, Trần Huy Khải, Chế Lan Viên, Xuân Quỳnh, Xuân Diệu, Nam Cao, Vũ Trọng Phụng, Tú Xương, Nguyễn Khuyến, Nguyễn Tuân,...)). Văn chương thể hiện số phận của con người, cuộc sống của người dân qua các giai đoạn lịch sử, con người trong công cuộc xây dựng và đổi mới đất nước. Văn học giúp con người xích lại gần nhau hơn, hiểu nhau hơn. Văn chương thể hiện tình cảm của tác giả, nhà văn, nhà thơ trước thực tế cuộc sống. Vì vậy, có thể nói văn học Việt Nam cũng thể hiện sự giàu đẹp của Tiếng Việt.

Bình luận (0)
Lưu Hạ Vy
10 tháng 2 2017 lúc 19:18

Tôi nhớ hồi mới học lớp 5 thầy giáo bảo tôi: Tiếng Việt ta giàu và đẹp lắm em ạ, nên phải biết yêu quý, trân trọng và giữ gìn nó (sở dĩ thầy nhắc khéo tôi là vì lúc ấy, tôi mới học lỏm được của anh trai mình mấy từ tiếng Pháp, lại học lỏn của chị con nhà bác hàng xóm mới đi Nga về mấy từ tiếng Nga. Thế là trong bài tập làm văn, tôi chêm vào đó cả tiếng Pháp lẫn tiếng Nga). Lúc bấy giờ, tôi thầm nghĩ: Thầy có muốn viết như mình cũng chả được, vì thầy có biết ngoại ngữ đâu. Mà tiếng Việt có gì là ghè gớm lắm chử! Nhưng rồi học lên lớp 6, rồi lớp 7, tôi được tiếp xúc với bao áng thơ văn trữ tình đằm thắm, tôi mới thấy thấm thìa câu nói đó của thầy tôi. Nghĩ lại những ý nghĩ ngây thơ và ngu ngốc hồi trước, tôi lại càng giận mình.

Tiếng Việt ta giàu đẹp như thế nào là vấn đề đã được không ít các nhà nghiên cứu quan tâm. Cố thủ tướng Phạm Văn Đồng có bài viết Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, nhà phê bình Đặng Thai Mai có Tiếng Việt, một biểu hiện hùng hồn của sức sống dân tộc ...

Các nhà văn, nhà thơ không cần bàn luận gì, họ chỉ lặng lẽ mài giũa cho tiếng Việt ngày càng “trong” và “sáng” hơn, ngày càng “giàu” và “đẹp” hơn. Quả thực, tiếng Việt ta rất giàu và đẹp.

Tiếng Việt là thứ ngôn ngữ giàu hình ảnh, hình tượng. Với một hệ thống các từ láy, từ ghép, từ tượng hình, tượng thanh, tiếng Việt có khả năng gợi ra được những hình ảnh rất rõ nét trong trí óc của người nghe.

Chắc chúng ta ai chẳng nhớ hai câu thơ với cách dùng từ gợi hình ảnh, trạng thái đầy ấn tượng của nữ sĩ Thanh Quan:

Lom khom dưới núi tiều vài chú

Lác đác bên sông chợ mấy nhà

Nhờ những từ láy lom khom, lác đác mà sức biểu hiện của câu thơ đã tăng gấp bội . Cảnh hoang vu, quạnh vắng của Đèo Ngang trong buổi chiều tà càng thêm hiu hắt, ảm đạm.

Một điều lí thú hơn là ngay cả những từ đơn âm của tiếng Việt cũng có giá trị gợi hình. Chẳng hạn như:

Thân em vừa trắng lại vừa tròn

Bảy nổi ba chìm với nước non

(Hồ Xuân Hương)

Và đây nữa, hình ảnh con hổ uy nghi, dũng mãnh, đẹp một vẻ đẹp hùng tráng:

Ta bước chân lên dõng dạc đường hoàng

Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng

Vờn bóng âm thầm, lá gai cỏ sắc

Trong đêm tối mắt thần khi đã quắc

Là khiến cho mọi vật đều im hơi.

(Thế Lữ)

Cùng với khả năng tạo hình, tiếng Việt còn là thứ tiếng giàu âm thanh, nhạc điệu. Với một hệ thống nguyên âm, phụ âm phong phú, thêm vào đó là hệ thống các thanh điệu với những âm độ, âm vực, tiếng Việt có khả năng tạo ra nhiều giai điệu khác nhau: lúc du dương trầm bổng, lúc réo rắt, có lúc lại sâu lắng, thiết tha...

Ta hãy nghe những giai điệu êm đềm, đằm thắm của câu ca dao:

Gió đưa, cành trúc la đà

Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương

Mịt mù khói toả ngàn sương

Nhịp chày Yên Thái, mặt gương Tây hồ

Hãy cảm nhận âm điệu của những dấu huyền ngọt ngào (Xuân Diệu) trong câu thơ Chinh phụ ngâm:

Ngòi đầu cầu nước trong như lọc

Đường bên cầu cỏ mọc còn non

Và những giai điệu vừa sôi nổi rạo rực, vừa thiết tha đằm thắm, du dương của câu thơ Tố Hữu:

Đẹp vô cùng Tổ quốc ta ơ

Rừng cọ, đồi chè, đồng xanh ngào ngạt

Nắng chói sông Lô, hò ô tiếng hát

Chuyến phà dào dạt bến nước Bình Ca.

Chỉ riêng với hai khả năng: tạo hình và tạo nhạc, tiếng Việt đã đủ xứng đáng là một thứ ngôn ngữ vừa giàu vừa đẹp. Tuy nhiên, sự giàu và đẹp của tiếng Việt không chỉ dừng lại ở đó. Một đặc điểm không thể bỏ qua của tiếng Việt là sắc thái gợi cảm, sắc thái biểu hiện cảm xúc. Nó có khả năng diễn tả tinh tế những trạng thái khác nhau trong đời sống nội tâm phong phú của tâm hồn Việt.

Chỉ lấy ví dụ riêng về mặt diễn tả tâm trẹng nhớ nhung của con người cũng đủ làm ta ngạc nhiên.

Một trạng thái nhớ nhung bâng khuâng:

Anh đi anh nhớ quê nhà

Nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tương

Nhớ ai dãi nắng dầm sương

Nhớ ai tát nước bên đường hôm nao

(Trần Tuấn Khải)

Một trạng thái nhớ nhung cồn cào, da diết:

Nhớ ai bổi hổi bồi hồi

Như đứng đống lửa như ngồi đống rơm

(Ca dao)

Một nỗi sầu mênh mang, sâu thẳm:

Chàng thì đi cõi xa mưa gió

Thiếp thì về buồng cũ chiếu chăn

Đoái trông theo đã cách ngăn

Tuôn màu mây biếc trải ngàn núi xanh.

(Chinh phụ ngâm)

Vốn từ của tiếng Việt cũng rất phong phú và độc đáo. Chỉ xét riêng vốn từ ngữ xưng hô cũng đã đủ làm ra sự đặc sắc đó. Trong từ ngữ xưng hô của tiếng Việt, ngoài những đại từ nhân xưng được ghi trong từ điển, người Việt ta còn dùng các danh từ chỉ quan hệ họ hàng làm từ xưng hô, khiến cho cách nói năng hàm chứa nhiều sắc thái tình cảm hơn.

Ngay cách dùng từ ngữ xưng hô cũng rất đặc biệt. Đã có ai lại thêm ta, rồi lại mình. Những từ này có khi là chủ thể phát ngôn, có khi là đối thể tiếp nhận, có khi lại bao hàm cả hai.

Chỉ riêng từ mình trong hai ví dụ sau đã thấy bao điều lí thú:

Mình đi mình lại nhớ mình

Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình lấy nhiêu

(Tố Hữu)

Mình nói với ta mình hãy còn son

Ta đi qua ngõ thấy con mình bò

Con mình lấm đất cùng tro

Ta đi gánh nước rửa cho con mình

(Ca dao)

Càng tìm hiểu kĩ hơn về tiếng Việt, ta càng ngỡ ngàng trước sự giàu đẹp của nó. Và càng thêm yêu tiếng Việt hơn.

Bình luận (0)
Nguyễn Kiều Linh
Xem chi tiết
Nguyễn Trần Thành Đạt
7 tháng 11 2016 lúc 22:41

- Ếch ngồi đáy giếng.

Đều nhận định về sự phán xét khiếm diện.

Bình luận (0)